40 Năm Nhìn lại Công Cuộc Đấu Tranh Cho Tự Do, Dân Chủ Việt Nam

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Có thể nói trong suốt 40 năm qua kể từ khi VNCH thất thủ vào ngày 30-4-75, công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ đã khởi đi từ ngày đó, và không hề ngưng nghỉ đứt đoạn, dù có lúc thăng lúc trầm. Nhìn lại tiến trình đấu tranh trong suốt thời gian này, ta có thể chia ra làm ba thời kỳ:

1/ Từ 1975 đến 1989: Thời kỳ kháng cự với ý chí phục quốc.

2/ Từ 1990 đến 2005: Đấu tranh chính trị áp lực từ bên ngoài vào, bên trong nhen nhúm lên và mở ra sự liên kết trong ngoài.

3/ Từ 2006 đến nay: Trong ngoài đồng hành cùng công khai đấu tranh bất bạo động với sự đâm chồi của xã hội dân sự.

Bài này xin tổng lược tiến trình đấu tranh qua các thời kỳ trên.

Thời Kỳ 1975-1989: Kháng Cự Quật Cường

Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam vào tháng tư 1975, CSVN đã thống nhất toàn thể đất nước dưới một chế độ khắt khe toàn trị. Dưới chế độ như thế, những ai không cam chịu bị khuất phục chỉ có một trong hai con đường để chọn: hoặc tìm cách vượt thoát tìm tự do, hoặc tìm cách chiến đấu để từ kháng cự để sống còn, rồi tiến lên phục quốc giải phóng đất nước khỏi gông cùm CS.

Cho nên đây là thời kỳ mà những cuộc vượt biên vượt biển của người Việt đã thành một cao trào đánh động lòng cảm phục và thương cảm của thế giới tự do và đồng thời trở thành vấn nạn của thế giới, khi các quốc gia đệ tam phải tìm cách giải quyết làn sóng tỵ nạn.

Có thể nói trước đó chưa có một xứ nào đang bị CS thống trị lại xẩy ra hiện tượng vượt biển hàng loạt như nước Việt, với những con thuyền mong manh quá tải, bất chấp hiểm nguy giông bão, hải tặc cướp hiếp, gây ấn tượng mạnh mẽ trên dư luận truyền thông quốc tế.

Dù hình ảnh có vẻ tiêu cực, là một phong trào trốn chạy khỏi CS, nhưng thực chất đây cũng là một hình thức kháng cự, biểu lộ trước dư luận quốc tế sự quyết tâm dũng cảm không chấp nhận CS, phá đi cái hình ảnh mà CSVN ra sức tuyên truyền rằng họ chiến thắng vì là bên chính nghĩa được toàn dân tin tưởng để giải phóng dân tộc.

Nhưng đa số đồng bào ở lại cũng không phải hoàn toàn chịu khuất phục. Nhiều người dân trong nước đã thể hiện tinh thần kháng cự bằng cách kín đáo bất hợp tác với và thậm chí phá hỏng tiến trình đi lên XHCN, như làm thịt trâu bò để khỏi xung vào hợp tác xã, làm việc cầm chừng lấy lệ cho những chỉ tiêu báo cáo đạt được chỉ là báo cáo láo, trốn thuế, câu điện chùa để khỏi trả tiền cho nhà nước, mánh mung hủ hoá cán bộ VC v.v…

Song song đó, có những hình thái kháng cự tích cực hơn. Ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không phải toàn bộ quân lực VNCH rã đám. Có những toán quân nhỏ không chấp nhận buông súng đã rút vào rừng lẩn tránh thành lập những ổ kháng cự, để tìm cách sống còn, kháng chiến phục quốc.

Những ổ kháng cự này là những hạt nhân đầu tiên tạo sự nối kết các thành phần quân dân cán chính và tu sĩ tôn giáo không chấp nhận đầu hàng CS. Từ đó nhiều lực lượng kháng cự ra đời rải rác tại nhiều nơi trong Nam như Lực Lượng Liên Tôn, Mặt Trận Kháng Chiến Miền Tây, Lực Lượng Kháng Chiến Tả Ngạn Cửu Long Giang, Lực Lượng Phục Quốc Đồng Bò, Lực Lượng Kháng Chiến Vùng Thất Sơn, Lực Lượng Thanh Long v.v…

Cùng lúc đó tại Hải Ngoại, nhiều tổ chức tìm cách đưa người về lại trong nước để kháng chiến như Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng VN của các ông Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh,Trần Văn Bá, Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc của ông Võ Đại Tôn, Phục Hưng, Người Việt Tự Do, Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoại, 3 tổ chức sau này là tiền thân kết hợp nên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN do đô đốc Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, quy tụ được nhiều lực lượng kháng cự ở trong nước.

Có thể nói khi mà CSVN hoàn toàn kiểm soát được mọi mặt của xã hội, và cai trị một cách khắc nghiệt trong khung cảnh của chiến tranh lạnh, mọi hình thức đối kháng đối đầu đều là những đấu tranh sinh tử một mất một còn, cho nên khó có sự lựa chọn nào khác ngoài đấu tranh võ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.

Mặc dù các nỗ lực kháng cự đã gặp rất nhiều khó khăn với kết quả không mấy sáng sủa khi một số người lãnh đạo của các lực lượng này lần lượt hy sinh như bị bắt (ông Võ Đại Tôn, nhóm Nhà thờ Vinh Sơn), bị xử tử (anh Trần Văn Bá, ông Lê Quốc Quân, Tu sĩ Hồ Thái Bạch) hoặc phải tuẫn tiết (Tướng Hoàng Cơ Minh).

Tuy thế, chính những hy sinh kể trên đã góp phần nung nấu tinh thần kháng cộng khiến ngọn lửa đấu tranh vẫn không hề bị dập tắt và chuyển sang thời kỳ kế tiếp. Nói cách khác, ngọn lửa chống cộng tiếp tục duy trì và lan tỏa ở trong và ngoài nước hiện nay chính là nhờ những hy sinh cao cả của những người đã vị quốc vong thân trong thời kỳ kháng cự, phục quốc đầy gian lao này.

Thời Kỳ 1990-2005: Liên Kết Trong Ngoài

Sự sụp đổ của CS Đông Âu đã thổi lên một làn gió và hy vọng mới cho công cuộc đấu tranh. Trước đó vào cuối thập niên 80, do bản chất của nền kinh tế XHCN, do sự thụ động bất hợp tác của người dân trong nước, do sự mất mát một bộ phận lớn tinh hoa tài năng, chất xám của dân tộc qua những đợt tù cải tạo, đánh phá tư sản thành công, đợt sóng vượt biên vượt biển cộng với sự cấm vận phong toả kinh tế của Mỹ và một số đồng minh Mỹ, và sự tiếp tục o ép của ông chủ cũ Bắc Kinh, Hà Nội đã không thể không học theo Liên Xô để “đổi mới”, nới lỏng dây trói, tìm cách mở cửa ra thế giới bên ngoài để cứu vãn nền kinh tế đang kiệt quệ. Nhưng đồng thời để bảo vệ sự sống còn của mình, khỏi theo vết xe sụp đổ của Thầy Liên Xô, Hà Nội lại quay đầu về khấu tấu chủ cũ Bắc Kinh qua Hội Nghị Thành Đô vào năm 1990.

Sự mở cửa ra bên ngoài và nới lỏng dây trói trên, khiến các xu hướng bất đồng với Đảng CS ở trong nước có chút khoảng trống để ngọ nguậy. Bắt đầu có những tiếng nói đơn lẻ cất lên, mới đầu từ rón rén, rồi mạnh dạn thẳng thừng hơn như bài Chia Tay Ý Thức Hệ của ông Hà Sĩ Phu, dần dần đến những nhóm như Cao Trào Nhân Bản của BS Nguyễn Đan Quế, Diễn Đàn Tự Do của GS Đoàn Viết Hoạt, Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ với ông Nguyễn Đình Huy v.v…

Ngay cả trong hàng ngũ CS các tiếng nói bất đồng cũng nổi lên như Câu Lạc Bộ Kháng Chiến Cũ của Nguyễn Hộ…. Những tiếng nói đối kháng càng ngày càng công khai lộ diện nhiều hơn sau khi những tin tức v/v Hà Nội nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh bị rò rỉ tiết lộ khiến dân Việt lo âu về viễn cảnh Bắc thuộc một lần nữa.

Song song đó, với niềm lạc quan mới từ sự tan rã của chủ nghĩa CS, ở hải ngoại ta thấy nở rộ lên những phong trào, tổ chức, cá nhân cùng xuất hiện để tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Càng ngày càng nhiều tổ chức cộng đồng Việt Nam tỵ nạn được thành lập ở khắp các nơi có đông người Việt tỵ nạn góp phần xây dựng một phòng tuyến người Việt Tự Do vững chắc, xiển dương lá cờ vàng tự do, ngăn chặn những nỗ lực xâm nhập vào cộng đồng tỵ nạn của CS, chặn đánh những khuôn mặt hay phái đoàn đại diện chế độ CS đi ra công cán nước ngoài. Các nỗ lực ngoại vận và quốc tế vận bắt đầu khởi sắc hơn để tố cáo trước công luận quốc tế về những vi phạm nhân quyền của CSVN.

Trong thời kỳ này, sự liên lạc trong ngoài bắt đầu dễ dàng hơn. Cho nên người Việt hải ngoại đã có thể mở ra những chiến dịch chuyển lửa và tin tức đấu tranh về trong nước, góp phần làm soi mòn sự bưng bít thông tin của chế độ CS, động viên tinh thần người trong nước. Các tổ chức đấu tranh chính trị ở hải ngoại như Liên Minh VN Tự Do, Thông Luận, v.v… bắt đầu với tới trong nước, tìm cách giao lưu với giới đối kháng quốc nội. Từ đó một trận thế liên kết trong ngoài bắt đầu được hình thành.

Tuy thế, bộ máy áp chế của chế độ Hà Nội vẫn còn mạnh nên các thành phần đối kháng trong nước đã bị trù dập, bắt bớ, vô hiệu hoá gần hết. Nhưng thay vì làm nản lòng người yêu nước hay dập tắt được ngọn lửa đấu tranh, những bắt bớ trù dập trên càng làm cho các tổ chức đấu tranh và cộng đồng tỵ nạn hải ngoại thấy mình phải nỗ lực hơn nữa để hỗ trợ những người bị trù dập trong nước về mặt ngoại vận, tinh thần cũng như vật chất.

Trong tinh thần đó, cuối năm 2004, Đảng Việt Tân công khai hoá từ sau vỏ bọc MTQGTNGPVN để chuẩn bị cho giai đoạn tới, chuyển lực về địa bàn quốc nội để đồng cam cộng khổ với người trong nước trực diện với CSVN, khai thông ranh giới đấu tranh trong ngoài.

Thời Kỳ 2006 – Đến Nay:

Thời kỳ này được khai phá bởi Tuyên ngôn của Khối 8406 vào ngày 8-4-2006, nhân dịp Hà Nội chuẩn bị cho Hội Nghị APEC là lúc mà chế độ Hà Nội phải giữ bộ mặt cởi mở tôn trọng nhân quyền trước truyền thông và các phái đoàn quốc tế. Đây là một tuyên ngôn mạnh mẽ nhất từ trước đến nay ở trong nước lên án CSVN, đòi thay đổi chế độ. Và từ đó những hoạt động đấu tranh trong nước được nâng cấp công khai, dù có bị trù dập, chứ không còn rụt rè lén lút như trước.

Những đặc điểm của thời kỳ này là:

1- Sự bộc phát của mạng internet và mạng xã hội đã xoá đi ranh giới địa dư trong ngoài và khiến chế độ mất đi khả năng kiểm soát thông tin.

2- Các đảng chính trị công khai xuất hiện trong nước dù chỉ là trong thời gian ngắn trước khi bộ phận lãnh đạo bị vô hiệu hoá trong tù (Thăng Tiến, Lạc Hồng, Dân Chủ Thế Kỷ 21….)

3- Đấu tranh bất bạo động là một phương pháp đấu tranh phổ quát được hầu hết người đấu tranh chấp nhận và áp dụng với những lối đánh sáng tạo đẩy cầm quyền vào những thế khó xử tiến thoái lưỡng nan.

4- Sự tung hứng chan hoà giữa giới đấu tranh ở hải ngoại và giới đấu tranh trong nước. Người hải ngoại ra vào trong nước hiện diện sát cánh cùng bà con quốc nội, người trong nước ra hải ngoại làm ngoại vận và quốc tế vận, các nhóm, tổ chức đấu tranh như Việt Tân, khối 8406, Con Đường Việt Nam, VOICE v,v… hoạt động minh danh tại cả hai địa bàn trong và ngoài nước.

5- Sự xuất hiện của truyền thông lề trái hay lề dân để cạnh tranh với truyền thông của Đảng và dần dần đang nắm thế chủ động đẩy bộ máy tuyên truyền của Đảng vào thế bị động, phản ứng, chạy theo chống đỡ, nói xuôi.

6- Sự ra đời và dần dần phát triển của một xã hội dân sự độc lập với nhà nước qua sự xuất hiện nhiều nhóm đa dạng hoạt động trên nhiều phương diện sở thích khác nhau. Đặc biệt là các đoàn thể xã hội dân sự này đang tạo thế liên kết và cùng nhau lên tiếng về những vấn đề của đất nước.

7- Sự xuất hiện càng ngày càng nhiều những khuôn mặt đấu tranh mới, nhất là sau mỗi đợt trù dập của nhà cầm quyền CS. Trong thời kỳ trước, phong trào đấu tranh thường chìm đi một thời gian như để bảo toàn lực lượng, dành thì giờ hồi phục. Thời kỳ này những đợt trù dập ngược lại càng kích thích phong trào đấu tranh đi lên tới nữa, với khuynh hướng tập trung tranh đấu cho quyền lập hội, tự do thông tin, và tụ họp để dọn đường cho giai đoạn kết.

Có thể nói thời kỳ hiện nay là thời kỳ tăng tốc đấu tranh. Những biến chuyển từ 2006 đến nay càng ngày càng dồn dập, số lượng các động thái thoát độc tài trong 4, 5 năm trở lại bằng toàn thể những hoạt động đối kháng trong 30, 40 năm qua. Không những thế, chất lượng của các nỗ lực đấu tranh càng ngày càng cao, hiệu quả hơn, qua những lối đánh sáng tạo trong đấu tranh phi bạo lực, làm chế độ độc tài hoàn toàn mất khả năng toàn trị tuyệt đối như xưa, nhiều khi phải lúng túng bị động, phải có bước lùi trước sức ép của người Việt trong ngoài.

*

Trải qua ba thời kỳ đấu tranh từ những nỗ lực kháng cự đơn lẻ của từng người, từng nhóm sau năm 1975, cho đến những kết hợp rộng rãi trong và ngoài nước, để hỗ trợ nhau tạo thành những sức ép đáng kể lên chế độ độc tài Hà Nội, giờ đây chúng ta có thể khẳng định rằng phong trào đấu tranh tại Việt Nam sẽ chỉ ngày một lớn mạnh mà thôi.

Với cái đà này, ta sẽ không ngạc nhiên khi một ngày gần đây thấy công cuộc đấu tranh đang bước vào giai đoạn kết thúc lúc mà đại đa số quần chúng nhân dân đã hoàn toàn hết sợ, xuống đường đông đảo giành lấy quyền làm chủ thực sự cuộc sống và xã hội của chính mình.

40 năm với CS đã là quá đủ. Đã đến lúc lịch sử cần phải sang trang!

Đặng Vũ Chấn
28/4/2015

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ông Tô Lâm (trái) và ông Vương Đình Huệ. Ảnh: Thanh Niên

Về cuộc tranh giành quyền lực ở Ba Đình

Tin đồn mới nhất cho biết ông Huệ vẫn kiên cường chống trả, chưa chịu buông giáo đầu hàng dù tay chân thân tín đã bị ông Lâm tóm gọn. Có thể ông Huệ còn trông mong vào sự cứu viện của hoàng đế Tập Cận Bình bên Tàu. Nhưng trận đấu chỉ giằng co thêm một vài ngày nữa thôi, vì theo quy định của đảng CSVN, ông Huệ khó mà tránh được tội liên đới “trách nhiệm của người đứng đầu” khi các đàn em sa vào vòng lao lý, chưa kể ông Lâm còn nhiều độc chiêu sẽ tiếp tục tung ra để buộc ông Huệ phải cởi giáp quy hàng.

Lính hải quân Campuchia tại căn cứ hải quân Ream ở Preah Sihanouk trong một chuyến thăm do chính phủ tổ chức hôm 26/7/2019. Ảnh minh họa: AFP

Quân cảng Ream và Kênh đào Funan của Campuchia: nỗi lo lớn đối với Việt Nam

Hôm 18/4/2024, Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố thông tin về hai tàu hải quân Trung Quốc đã đậu ở căn cứ hải quân Ream của Campuchia trong hơn bốn tháng…

Từ đó, AMTI đặt câu hỏi liệu sự hiện diện thường trực của hải quân Trung Quốc tại quân cảng Ream đã được thiết lập trên thực tế hay mới chỉ là “lời đồn.”

Theo các chuyên gia, sự kết hợp giữa quân cảng Ream và kênh đào Phù Nam [Funan Techo] có thể tạo mối đe dọa an ninh truyền thống (quân sự) và an ninh phi truyền thống (môi trường, kinh tế, chính trị) đối với Việt Nam.

HRW đưa ra lời kêu gọi trước dịp diễn ra tiến trình Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam ngày 7/5/2024. Nguồn: HRW

HRW kêu gọi LHQ gây áp lực để Việt Nam cải thiện nhân quyền

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền hôm 22/4 hối thúc các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc nên tận dụng đợt rà soát hồ sơ nhân quyền sắp tới của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền LHQ để gây áp lực buộc Hà Nội chấm dứt đàn áp những người bất đồng chính kiến và các quyền cơ bản.