80 phần trăm của con số không: Những tuyên nhận ảo của Trung Quốc trên Biển Đông

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Steven Stashwick
09/02/2016

Thi sĩ người Pháp Baudelaire từng nói rằng đòn ma mãnh nhất của quỹ vương là làm chúng ta tin rằng hắn không hiện hữu. Đòn ma mãnh nhất của Trung Quốc có thể là làm chúng ta tin rằng những tuyên nhận của họ trên Biển Đông là thật. Những phát biểu chính thức về “chủ quyền không thể chối cãi trên Biển Đông” nghe như lập trường chắc nịch của Trung Quốc. Và việc Trung Quốc chiếm đóng nhiều hòn đảo trong vùng, cảnh sát biển rượt đuổi các tàu đánh cá nước ngoài, và các công trình bồi đắp đảo quy mô cho thấy sự hiện diện thường trực trong vùng.

Nhưng với ngoại lệ của đảo Hoàng Sa giữa đảo Hải Nam và Việt Nam, Trung Quốc chưa từng có những tuyên nhận pháp lý hợp lệ trên Biển Đông. Thay vào đó sự mập mờ của Trung Quốc được sắp xếp để truyền thông quốc tế đưa tin tạo ấn tượng các tuyên nhận chủ quyền nhiều hơn là họ có. Lối nói thường được nhắc đến (như cái gọi là “sự kiện” Trung Quốc tuyên nhận 80 phần trăm Biển Đông) giúp Trung Quốc chính danh hóa những hoạt động lấn lướt trong vùng mà không phải mở rộng tư thế pháp lý của họ. Không có những thế pháp lý chính thức đó, Trung Quốc cho đến nay đã khéo léo tránh bị đẩy vào thế kẹt chiến lược trong vùng Biển Đông mà không cần phải dùng đến quân sự để bảo vệ các tuyên nhận mà họ chưa từng thực sự làm.

JPEG - 21.3 kb
Tác giả bài viết cho rằng Trung Quốc mập mờ trong việc sắp xếp để truyền thông quốc tế đưa tin tạo ấn tượng các tuyên nhận chủ quyền nhiều hơn là họ có.

Nhưng giới hạn của chiến lược này đã biểu lộ. Việc đưa tin đặc biệt trước chuyến công tác tự do hải hành của chiến hạm USS Lassen xuyên qua vùng đảo Trường Sa hồi tháng Mười năm ngoái khiến người ta chú ý nhiều đến các vấn đề chiến lược, pháp lý, lãnh hải tại Biển Đông. Áp lực công luận đó đã gây khó khăn cho Trung Quốc phản ứng một cách quân bằng giữa tư thế pháp lý và nhu cầu giữ ấn tượng tốt trên toàn cầu và thỏa mãn những mong đợi từ giới dân tộc chủ nghĩa trong nước. Tuy các phát biểu vẫn có vẻ kiên định, Trung Quốc rõ ràng không muốn cơ nguy đối đầu với quân đội Hoa Kỳ, dầu ở cấp thấp, vì những tuyên nhận trên Biển Đông.

Sau chuyến công tác của chiến hạm Lassen, tin tức bình luận trái ngược nhau về chuyến đi này là hình thức qua lại không gây hại cho đến những phân tích dựa vào các dữ kiện địa dư sai trật. Dầu sao đi nữa, người ta đồng ý là chuyến đi của Lassen quả thật là một “thách thức đối với các tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc” vì Trung Quốc “tuyên nhận gần toàn bộ Biển Đông” là chủ quyền của họ.

Nhưng, theo đúng nguyên tắc, thì không phải vậy.

Tin tức về vùng này thường đưa thông tin rằng Trung Quốc “tuyên nhận 80 phần trăm Biển Đông”, một “sự kiện” mà chính quyền Trung Quốc chắc chắn là hoan nghênh và không cần làm gì để phản bác nó. Tin tức về chuyến đi tự do hải hành của chiến hạm Lassen cũng thường nhắc đến phạm vi 12 hải lý quanh các đảo Trường Sa. Khi hai ý niệm trên đi chung với nhau trong tin tức tường thuật, rõ ràng là có vấn đề với lối nhìn này. Để Trung Quốc tuyên nhận 80 phần trăm Biển Đông, họ cũng phải tuyên nhận hầu hết vùng biển vượt xa phạm vi 12 hải lý của các đảo.

Vậy các tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc là gì? Trái ngược với ấn tượng trên truyền thông, Trung Quốc chưa có tuyên nhận những gì gần với ấn tượng đó. Một số bình luận gia lưu ý là có nhiều mơ hồ về các tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông vì Trung Quốc chưa chính thức hóa hoặc làm sáng tỏ các tuyên nhận đó. Điều khoản 16 của Luật Biển của Liên Hiệp Quốc đòi hỏi các quốc gia phải công bố các tuyên nhận chủ quyền lãnh hải và đường cơ sở (lằn ranh mà các tuyên nhận lãnh hải được đo lường) và cung cấp cho Liên Hiệp Quốc hoặc trên “bản đồ … đủ để khẳng định vị trí của chúng” hoặc trong một “danh sách tọa độ địa dư”. Nhưng dầu với nhiều tranh cãi như thế, các dữ kiện mà Trung Quốc nộp cho Liên Hiệp Quốc không có những tuyên nhận rõ ràng.

JPEG - 20.3 kb
Dữ kiện tọa độ của đảo Senkaku là một trong hai nhóm đảo được Trung Quốc cung cấp cho Liên Hiệp Quốc vào năm 1996.

Trong bản tuyên bố lãnh hải năm 1958, Trung Quốc tuyên nhận đường cơ sở quanh Trường Sa và các đảo khác, nhưng không nhận dạng phạm vi nới rộng của các đảo đó hoặc cung cấp tọa độ địa dư của đường cơ sở. Thiếu vắng dữ kiện cụ thể cho các giới đi biển, vẽ bản đồ, luật sư để làm việc có nghĩa là trên thực tế, các đường cơ sở của Trung Quốc và lãnh hải chỉ hiện hữu đến phạm vi nào mà các bên tôn trọng. Để cho người khác ước đoán các điều này không phải là một nền tảng pháp lý vững chắc. Đến năm 1996 Trung Quốc rốt cuộc cung cấp cho Liên Hiệp Quốc toạ độ của các đường cơ sở. Dữ kiện bao gồm tọa độ của quần đảo Hoàng Sa, đảo Điếu Ngư (Senkaku/Diaoyu) ở Đông Hải. Nhưng lần đệ nạp cho Liên Hiệp Quốc năm 1996 không có dữ kiện gì cho quần đảo Trường Sa hay các nhóm đảo nào khác tại Biển Đông.

Thay vì tuyên nhận chủ quyền trên Biển Đông trên phương diện pháp lý, Trung Quốc tìm cách xây dựng tư thế trên thực tế bằng cách xây đảo và dùng cảnh sát biển để thuyết phục người khác nhìn nhận quyền kiểm soát của Trung Quốc trên thực tế chứ không trên pháp lý. Có lẽ không chắc là họ có thể kiểm soát được bao nhiêu cho nên Trung Quốc đã chọn không nêu rõ rệt lằn ranh chủ quyền dùng pháp lý. Thay vào đó họ dùng quan hệ công chúng để giới truyền thông vô hình chung toa rập trong việc bình thường hóa vùng kiểm soát của Trung Quốc trên toàn Biển Đông bằng cách lập đi lập lại những tuyên nhận chủ quyền không chính thức.

JPEG - 15.9 kb
Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì bản đồ 9 vạch này thiếu nền tảng địa lý, pháp lý và lịch sử để cấu thành một tuyên nhận chủ quyền lãnh hải.

Đường Chín Vạch được biết đến (đôi khi xuất hiện với mười hay mười một vạch) có lẽ là thành công nhất của Trung Quốc về mặt thông tin chiến lược mà giới truyền thông đưa tin. Đường này xuất hiện chính thức trong một ghi chú nộp cho Liên Hiệp Quốc bày tỏ sự phản đối của Trung Quốc về tuyên nhận chủ quyền chung giữa Việt Nam và Mã Lai. Đường chín vạch này khoanh vùng gần hết Biển Đông, nó có lẽ là nguồn dữ kiện mà giới truyền thông và bình luận gia cho rằng Trung Quốc tuyên nhận toàn bộ hay hầu hết (80 phần trăm) vùng biển này. Nhưng ghi chú là những thông tin ngoại giao không chính thức, không phải là tuyên nhập chính thức có chữ ký. Hơn thế nữa, bản đồ này không đáp ứng tiêu chuẩn địa lý đòi hỏi theo Điều khoản 16 về tuyên nhận chủ quyền lãnh hải.

Một bản phân tích chi tiết của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về bản đồ này cho thấy nó thiếu nền tảng địa lý, pháp lý và lịch sử để cấu thành một tuyên nhận chủ quyền lãnh hải. Tuy bản đồ chín vạch bây giờ thường xuất hiện dưới dạng đồ họa, bối cảnh của ghi chú đính kèm gợi ý rằng bản đồ này chỉ mô tả tuyên nhận chủ quyền trên các đảo tại Biển Đông, chứ không phải vùng biển này. Và tuy ghi chú có nêu lập trường chính thức của Trung Quốc về các đảo này, nó có lẽ không trở thành một tuyên nhận có giá trị pháp lý tự nó. Hoa Kỳ thì không nhìn nhận tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc hay các quốc gia nào khác khi chủ quyền Trường Sa vẫn còn đang bị tranh chấp khi chủ quyền của các đảo chưa được giải quyết thì vấn đề lãnh hải vẫn còn là điều tranh cãi.

Bối cảnh này phù hợp với các tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc và Chủ tịch Tập Cận Bình, trong đó họ luôn nhắc đến chủ quyền của các đảo, chứ không phải vùng biển. Nhưng với cách trình bày mập mờ Trung Quốc tạo ấn tượng tuyên nhận chủ quyền rộng lớn hơn. Sau chuyến công tác của chiến hạm Lassen, mặc dầu có lên tiếng phản đối chuyến đi này, Trung Quốc tuy thế không lấy lập trường thẳng thừng hay hàm ý rằng: có phải đảo Subi có phạm vi 12 hải lý, có phải Hải quân Hoa Kỳ vi phạm chủ quyền Trung Quốc, vùng biển nào mà Trung Quốc tuyên nhận chủ quyền, và lằn mức leo thang nào hiện hữu nếu xảy ra trên tương lai.

Lập trường mơ hồ về lãnh hải cho phép một quốc gia lấn lướt càng nhiều chừng nào được chừng đó trong khi vẫn để mở hé lối thoát để tránh chạm trán quân sự. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc gọi chuyến đi của Lassen là bất hợp pháp, gây hại cho “quan hệ Mỹ-Trung, hoà bình và ổn định trong vùng”, và cảnh cáo Hoa Kỳ “kiềm chế những hành vi nguy hiểm hay khiêu khích”. Bộ Quốc Phòng Trung Quốc ca ngợi Hải Quân Trung Quốc đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, gìn giữ ổn định và hòa bình tại Biển Đông.

Sự lên tiếng mạnh mẽ của Trung Quốc chỉ nhắm đến đối tượng quần chúng trong nước và báo giới quốc tế. Ấn tượng mà truyền thông đưa tin là phản ứng của một Trung Quốc “giận dữ” đưa tàu chiến bám sát theo chiến hạm Lassen và “cảnh cáo” về việc qua lại “bất hợp pháp” và “cưỡng bức”. Theo lời kể lại của hạm trưởng tàu Lassen thì thực tế là chiến hạm Trung Quốc bám sát theo là chiếc tàu mà Lassen đã tương tác thường xuyên và thân mật trong nhiều tuần khi Lassen đi tuần tra trong vùng, và sau khi chuyển lời “cảnh cáo” mà Bộ Ngoại Giao đề cập, họ chúc chiến chạm Hoa Kỳ một “chuyến đi vui vẻ” và mong là “sẽ gặp lại”.

JPEG - 20.7 kb
Chiến hạm USS Lassen (Ảnh: European Press Photo Agency)

Rõ ràng là Trung Quốc không có ý định muốn leo thang để gây ra sự cố với Hải quân Hoa Kỳ, nhưng cũng rõ rệt là họ muốn gầy dựng ấn tượng là họ có thể hay sẽ làm thế. Sự tương phản sâu sắc giữa thực tế và tin tức đưa ra cho thấy Trung Quốc muốn củng cố việc lấn chiếm trên Biển Đông bằng cách tăng ấn tượng là họ sẵn sàng chiến đấu để thuyết phục quần chúng Hoa Kỳ là chính quyền Hoa Kỳ không nên “liều lĩnh” can thiệp.

Nhưng chiến lược này có vấn đề nơi sân nhà khi mà giới chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc cũng bày tỏ thái độ tương tự về các vùng biển tuyên nhận nhằm nhắm đến khán giả quốc tế. Vì thế Trung Quốc sẽ gặp áp lực mạnh từ các lực trong nước không nhận thức được lập trường tinh vi cẩn thận của chính quyền. Giới chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc rất bất bình khi thấy chính quyền có khuynh hướng ra thông báo phản đối hơn là có hành động quân sự đối với chuyến tuần tra của Lassen.

Và điều nguy hiểm tột cùng là nếu cả Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu tin vào bộ tịch của chính họ – hay tệ hơn, bộ tịch của giới truyền thông và bình luận mà không liên quan gì đến chiến lược chính thức. Ngay bây giờ thì rõ rệt là cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều không muốn rủi ro đụng độ trên Biển Đông, ngay cả khi đôi bên không thích cách hành xử của nhau. Nhưng đến lúc nào đó bộ tịch của đôi bên đòi hỏi phải có hành động tương xứng – mặc dầu chẳng bên nào muốn.

Steven Stashwich là phân tích gia và cây bút ở thành phố New York. Ông từng là sĩ quan hải quân Hoa Kỳ 10 năm trời với nhiều lần công tác tại vùng Tây Thái Bình Dương. Ông thường viết về các vấn đề hàng hải ở Đông Á và vẫn còn phục vụ trong lực lượng trừ bị Hải Quân Hoa Kỳ. Quan điểm trong bài viết này là của riêng ông.

Hoàng Thuyên lược dịch

Theo The Diplomat – 9/2/2016

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, tuổi cao, sức yếu, và bị coi là ngày càng mất dần quyền lực. Ảnh minh họa: Hoang Dinh Nam/ AFP via Getty Images

Vì sao chính trường CSVN rối ren?

Trong bối cảnh ông Trọng tuổi cao, sức yếu, và quyền lực suy giảm đáng kể, chiến dịch chống tham nhũng có thể bị suy giảm. Có ý kiến cho rằng “chiến dịch chống tham nhũng đang dần thoát khỏi tầm kiểm soát của ông Trọng và hiện giờ, chiến dịch chống tham nhũng được điều hành trực tiếp từ ông Tô Lâm, bộ trưởng Bộ Công An,” là điều đã được cảnh báo trước.

Ảnh minh họa: FB Nguyễn Tuấn

Bạn bè trên cõi mạng

Về nhà tôi nghĩ hoài về hiện tượng fb. Rất nhiều bạn tôi chưa bao giờ gặp ngoài đời, mà chỉ qua fb. Cũng chẳng sao. Tình bạn không phải chỉ là tiếp xúc hay tay bắt mặt mừng, mà có thể là tiếp xúc bằng trái tim và tâm hồn. Vậy là hạnh phúc rồi.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Nhân sự đại hội đảng XIV chủ trì phiên họp đầu tiên của Tiểu ban hôm 13/3/2024 tại trụ sở Trung ương đảng. Ảnh: Vietnam Plus

Từ trường hợp ông Võ Văn Thưởng nhìn về công tác nhân sự

Nhưng thống kê lại chuỗi cán bộ cấp cao bị kỷ luật trong thời gian qua, phân tích bản chất, tìm đến nguyên nhân cốt lõi, thì đi đến kết luận rằng, công cuộc chống tham nhũng cần phải đẩy mạnh, tiến hành triệt để, nhưng phải cần đến các biện pháp khác có khả năng tiệu diệt nguyên nhân gốc rễ của quốc nạn tham nhũng.