Ai giữ nước?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Suốt hơn nửa thế kỷ, mọi báo đài của đảng và nhà nước CSVN luôn dùng từ ngữ “ngụy quân, ngụy quyền” khi nói đến quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, với hàm ý đây chỉ là quân đội giả, chính phủ giả do ngoại bang lập ra và xử dụng mà thôi. Ngay cả khi có những tiếng kêu gọi hãy bỏ những lời phỉ báng đó đi vì mục tiêu hàn gắn các vết thương dân tộc, lãnh đạo đảng vẫn vênh vang làm ngơ. Chỉ trong vài năm gần đây, khi làn sóng gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông ngày càng táo bạo và các tấm biểu ngữ 16 chữ vàng – 4 tốt ngày càng rách nát, thì cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền” cũng gần như biến mất hẳn.

Có người đặt câu hỏi tại sao. Câu trả lời khá đơn giản: 4 chữ đó tác dụng ngược vì tạo ra sự so sánh trong lòng người dân. Tại sao một quân đội giả, một chính phủ giả lại nhất quyết bảo vệ đất nước đến như thế? Còn “những quân đội thật và chính phủ thật” của đảng CSVN ngày nay lại liên tục co rút và đầu hàng trước các bước xâm lấn của Bắc Kinh?

Hơn thế nữa, đảng và nhà nước CSVN hiện nay còn phải dùng những giọt máu hy sinh cao cả của các chiến sĩ hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để làm bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.

Nhưng nếu nhìn sâu vào các chi tiết, có lẽ chính xác hơn thì phải nói là chính phủ và quân lực VNCH lúc bấy giờ PHẢI bảo vệ đất nước vì đó là nguyện vọng của dân tộc. Chính lòng yêu nước của người Việt Nam – ít là một nửa dân số đang sống tại Miền Nam thời đó – không cho phép chính phủ ngồi yên thụ động.

Thật vậy, suốt giòng lịch sử Việt Nam, ngay cả khi không có chính phủ, người dân sẽ lập lên chính phủ để đánh đuổi ngoại xâm.

Vào những năm 40 Tây lịch, nước Việt nằm dưới sự đô hộ của nhà Hán và không có một chính quyền độc lập. Cha ông Việt đã tôn 2 bà Trưng Trắc và Trưng Nhị lên thống lĩnh đại cuộc đánh đuổi ngoại xâm.

Vào đầu thế kỷ 15, khi triều đại nhà Trần hoàn toàn tan rã, đất nước lại rơi vào vòng Bắc thuộc dưới thời cực thịnh của nhà Minh bên Tàu. Cha ông Việt sẵn sàng chọn một giòng họ khác lập lên chính phủ mới để quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi.

Cũng vậy, vào gần cuối thế kỷ 18, nhà Thanh ở thời cực thịnh dưới triều vua Càn Long lại xâm chiếm đất Việt với sự hợp tác của ông vua gốc Việt, Lê Chiêu Thống. Toàn dân lập tức tôn một nhà yêu nước lên ngôi với tên hiệu Quang Trung Hoàng Đế để đánh đuổi toàn bộ binh lính nhà Thanh về nước.

Chỉ nội trong 3 cuộc khởi nghĩa điển hình nêu trên, người ta đã thấy những điểm chung không hề thay đổi về lòng yêu nước của dân tộc Việt:

– Cha ông ta không bao giờ viện cớ vì nước nhà đang yếu để tránh né việc bảo vệ đất nước hay dâng nhượng đất nước để được yên thân. Đúng ra thì trong TẤT CẢ mọi lần giao tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc, KHÔNG một lần nào quân Việt mạnh hơn quân Tàu.

– Cha ông ta cũng không viện cớ vì không có lãnh đạo, không có người cầm đầu để khỏi lo việc bảo vệ đất nước. Nếu chưa có lãnh đạo thì phải tìm, phải lập cho ra được lãnh đạo. Và khi có lãnh đạo thì đòi buộc lãnh đạo phải dẫn toàn dân đi cứu nước.

– Cha ông ta cũng không phó mặc cho chính phủ lo việc giữ nước, đặc biệt đối với loại chính phủ như của vua Lê Chiêu Thống. Ngay khi thấy rõ thái độ phản quốc của những kẻ cầm quyền, dân tộc lập tức thay thế chính phủ đó bằng những người yêu nước, hết lòng bảo vệ quê hương.

Ngày nay, khi ôn lại tình hình cực kỳ khó khăn trong những năm cuối của chế độ VNCH, cả dân tộc đang tiến đến điểm đồng thuận về một sự thật, đó là lòng yêu nước thiết tha và dũng cảm của những người con mang dòng máu Việt chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa nói riêng và Quân Lực VNCH nói chung.

Trước hết là sự chênh lệch quá lớn về lực lượng trong cuộc chạm súng ngoài khơi Hoàng Sa bắt đầu ngày 18/1/1974. Phía Việt Nam có Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), một đại đội hải kích thuộc Hải quân VNCH, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa. Đó là tất cả phương tiện mà chế độ VNCH có thể dành ra được cho Hoàng Sa trong tình trạng Hoa Kỳ cắt dần các trợ giúp quân sự từ năm 1973 sau khi họ đã ký kết ngầm với Tàu năm 1972.

Phía Trung Cộng có Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391, Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm đĩnh số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân, Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, và hai đội trinh sát. Đó là chưa kể 4 máy bay Mig 21 của Trung Cộng tham chiến vào ngày cuối của cuộc chạm súng.

Trong tình trạng chung của cả một quân đội đang cạn dần vũ khí, nhiên liệu, phương tiện vận chuyển, các chiến sĩ Quân Lực VNCH vẫn xem trách nhiệm bảo vệ đất nước là đương nhiên và tối thượng: Nếu hết đạn thì lấy thân mình đền nợ nước!

Cùng lúc đó, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không những không bao giờ cấm dân chúng bày tỏ lòng yêu nước và căm hận quân xâm lược, mà còn dựa vào khí thế đó để tạo dấu ấn tối đa trước thế giới về chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, để con cháu các đời sau còn có lý cớ tranh đấu giành lại. Bạch thư của chính phủ VNCH về Hoàng Sa tại các diễn đàn quốc tế còn tồn tại đến ngày nay.

Và hiển nhiên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chấp nhận đàm phán song phương với Bắc Kinh, cũng như không bao giờ rơi vào bẫy “hợp tác khai thác chung” những vùng biển đã bao đời thuộc chủ quyền Việt Nam.

Ngày nay giới lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN đã không còn có thể tiếp tục phủ nhận quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam, khi không nằm dưới sự cai trị của họ. Sự thừa nhận đó được thể hiện rõ ràng viện bảo tàng bảo vệ Hoàng Sa ở tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây lưu trữ trên 700 bộ sách cùng nhiều tài liệu, hình ảnh về biển đảo, chủ quyền Việt Nam quanh quần đảo Hoàng Sa và các đảo Đá Thị, Đá Nam, Nam Yết, An Bang, Tốc Tan, Tiên Nữ, và Trường Sa Lớn thuộc quần đảo Trường Sa.

Suốt gần 5000 năm từ thời Hồng Bàng lập quốc đến tận ngày nay, lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc Việt không thay đổi. Sự phân biệt giữa những triều đại yêu nước và những chính phủ bán nước cũng rất công thẳng và quyết liệt.

Đã đến lúc mọi cán bộ, đảng viên CSVN hãy tự hỏi “Ai đang giữ nước?” và “Ai đang bán nước?” để chọn chỗ đứng cho chính mình trước khi quá trễ.

Nguồn: http://diendanctm.blogspot.com/

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ông Tô Lâm trong họp báo ngày 03/08/2024 sau khi được Trung ương đảng “bầu” làm tổng bí thư thay thế ông Nguyễn Phú Trọng mới chết. Ảnh: Nhac Nguyen/ AFP via Getty Images

Nỗi bất an của giới lãnh đạo Việt Nam

Nhiều nhà quan sát quốc tế thừa nhận Việt Nam đã chuyển từ chế độ đảng trị sang chế độ công an trị từ rất lâu, ít nhất là từ năm 2016, mà dấu hiệu nhận biết là Bộ Công An ngày càng phình to ra, can thiệp vào mọi mặt cuộc sống người dân, thủ đoạn đàn áp ngày càng trắng trợn và thái độ thù địch không giấu diếm đối với các quyền dân sự và chính trị cơ bản.

Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, nguyên nhân sâu xa để đảng CSVN phải thay những quan chức dân sự, quan chức kinh tế bằng các tướng tá quân đội và công an là do bị thôi thúc bởi nỗi bất an, bởi nỗi lo sợ bị mất quyền lực, bị lật đổ bởi sức mạnh của khát vọng dân chủ tự do.

Ông Hoàng Tứ Duy, Tổng bí thư Việt Tân phát biểu trong buổi lễ Tưởng Niệm các Anh Hùng Đông Tiến tổ chức tại Câu lạc bộ Hải Lục Không Quân Toronto, Canada hôm 25/08/2024. Ảnh: Cơ sở Việt Tân Toronto

Mùa thu Toronto nhớ về những chiến hữu trên đường Đông Tiến

Năm nay, bên cạnh những khuôn mặt thân quen, tôi còn nhìn thấy những gương mặt trẻ, những người lần đầu đến nơi này. Có lẽ họ cũng giống tôi lần đầu tới đây. Trong ánh mắt họ, tôi thấy sự tò mò, nhưng cũng bao gồm cả sự trân trọng cho những người lính đã ngã xuống. Những người “mang gươm đi mở cõi” trong văn chương, chí lớn chưa thành nhưng hồn tử sĩ vẫn làm hậu thế ngả mũ cúi chào.

Con người Việt Tân xưa và nay

Hôm nay cùng nhau ở đây, tưởng niệm các Anh Hùng Đông Tiến, cũng là dịp để chúng ta cùng tri ân những người tiên phong, và tri ân nhau trong nỗ lực của mỗi người, với bất cứ khả năng gì và ở bất cứ giai đoạn nào trong cuộc đời của mình. 

Chúng ta có nhau! 

Sự đồng hành cùng nhau này và cùng với người dân có lý tưởng tại quê nhà, chúng ta không phải là thiểu số, mà là số đông có lương tâm, có tư duy, có sự trong sáng, có khả năng, và nhất là có tấm lòng góp gió thành bão.