Nạn Buôn Bán Phụ Nữ và Trẻ Em VN: Tiếng Kêu Cứu Trong Một Xã Hội Đang Bị Băng Hoại

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

“…Theo khảo sát tại 16 tỉnh, thành trọng điểm ở Việt Nam, đã phát hiện 1.758 trường hợp phụ nữ, trẻ em bị lừa bán ra nước ngoài… Không ít trong số đó trở thành nô lệ tình dục…” Đó là kết quả điều tra của Cục Cảnh sát Hình sự, Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an Cộng sản Việt Nam (CSVN) về thực trạng phụ nữ, trẻ em bị lừa bán ra nước ngoài trong 2 năm qua. Ngoài ra, từ 6 năm qua, cơ quan công an CSVN cho biết: “…đã phát hiện và triệt phá gần 700 vụ mua bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài, bắt hơn 1.200 đối tượng tổ chức và tham gia buôn người…” Tại một Hội Nghị hợp tác hành pháp biên giới giữa CSVN và Campuchia về phòng chống buôn bán người vào 2 ngày 16-17/11/2004 vừa qua, đại diện cảnh sát Campuchia cho rằng, “…tại nước này hiện có khoảng 18.000 người phục vụ tình dục và 33% trong số đó là phụ nữ, trẻ vị thành niên Việt Nam”. Chưa hết, những đường dây môi giới để buôn bán phụ nữ được trá hình dưới những cơ sở dịch vụ hôn nhân giữa cô dâu Việt nam với đàn ông tại Đài Loan, Nam Hàn đã và đang hoạt động cả công khai lẫn bí mật với số lượng thương vụ lên đến con số hàng ngàn cô dâu. Tại Đài Loan, hiện có khoảng 100.000 cô dâu Việt Nam và 65.000 công nhân lao động nhưng trong số đó, hàng ngàn trường hợp cô dâu đã được mua bán một cách công khai, bị buộc làm nô lệ tình dục, và bị đánh đập, đối xử thậm tệ. Tại Nam Hàn, hình ảnh các dịch vụ môi giới hôn nhân với các cô dâu Việt Nam được quảng cáo rầm rộ khắp nơi như một thứ sản phẩm, một loại đồ dùng rẻ tiền cho giới đàn ông tại đây. Môi giới, dịch vụ hôn nhân hay thực chất chỉ là một hình thức buôn bán phụ nữ Việt Nam? Chắc ai cũng đều có câu trả lời.

Một trong những phương thức phổ biến của những vụ mua bán phụ nữ, trẻ em là: Một người Việt Nam làm trung gian, tự móc nối hay bị móc nối với những người nước ngoài hay người Việt ở nước ngoài (nhất là ở các quốc gia như Trung Quốc, Camphuchia, Thái Lan, Đài Loan, Mã Lai, Nam Hàn.v.v…) để tạo thành những đường dây buôn bán phụ nữ và trẻ em, qua nhiều ngã đường biên giới và phương thức “vận chuyển người” khác nhau. Sau khi “đến nơi”, họ bị đẩy vào những ổ mãi dâm, bán cho những người cần lấy vợ qua hình thức dịch vụ hôn nhân, cần người giúp việc.v.v… Đau buồn nhất là những trường hợp trẻ em Việt Nam dưới tuổi thành niên đã bị đem bán vào những ổ mãi dâm tại Campuchia, Thái Lan.v.v… Những điểm “nóng”, nơi thường diễn ra các vụ buôn người, tập trung tại 14 tỉnh có biên giới giáp với Trung Quốc và Campuchia như: Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh, Bình Phước… Và đa số các nạn nhân thường tập trung ở vùng thôn quê, vùng giáp danh biên giới, những người nghèo, không có việc làm, thiếu học vấn.

Căn nguyên, bản chất của vấn nạn này bắt nguồn từ hiện trạng của một xã hội Việt Nam xuống dốc trầm trọng về mặt đạo lý, nhân phẩm, tinh thần con người cũng như sự rối loạn, đảo lộn trong đời sống văn hóa, kinh tế, vật chất của người dân, nhất là các vùng thôn quê, nơi nghèo đói đồng nghĩa với những bước đường cùng cho nhiều gia đình làm nông, làm mướn… Điều đáng tiếc là vấn nạn này luôn đe dọa những đối tượng thuộc thành phần dễ dị xâm hại về thể xác và tinh thần như phụ nữ và trẻ em nhưng chính quyền dường như đã “lãng quên” trong một thời gian dài cho nên mới trở thành một căn bệnh xã hội nhân đạo trầm trọng như hiện nay, thách thức lương tri con người và cả thế giới. Người dân và xã hội đang trông chờ một chính sách dài hạn của chính quyền để giải quyết triệt để và tận gốc nạn buôn người, hành hạ phụ nữ và trẻ em Việt Nam, chứ không phải những biện pháp có tính cách đối phó chỉ nhắm vào việc trừng trị những tên tội phạm. Kế hoạch đề phòng và ngăn chặn trước vấn nạn này cần bao gồm những chủ trương, công tác, chiến dịch cụ thể, thường xuyên và dài hạn. Tuy nhiên, phương hướng lâu dài nhằm giải quyết vấn nạn này còn gắn liền với những chính sách văn hóa, xã hội và chính trị, mà trong một thể chế chuyên quyền, một nền kinh tế “quái thai”, và một xã hội băng hoại về đạo đức như hiện nay thì Việt Nam khó có thể giải quyết được triệt để. Vấn nạn buôn người cần phải được đặt chung trong một bài toán tổng thể trên bình diện quốc gia nhằm xây dựng một xã hội công dân với những chính sách lâu dài làm nền tảng canh tân con người, canh tân môi trường và canh tân cơ chế chính trị hiện nay. Hậu quả nghiêm trọng sau những năm dài người dân bị kiềm kẹp, bưng bít thông tin dưới một thể chế độc đảng là nhiều người đã quen với buông xuôi và tuyệt vọng, tự đánh mất hy vọng và ý thức vươn lên một cách chân chính trong cuộc sống.

- Thứ nhất, người dân đã bị chính quyền tước đoạt những quyền tự do căn bản của một con người (mà nhiều người dân không hề hay biết) từ đó đưa đến những tâm lý mặc cảm tự ti là mình không có quyền đòi hỏi được chính quyền đối xử tốt hơn, chăm lo phúc lợi đầy đủ hơn.
- Thứ hai, người dân bị “điều kiện hóa” và “ngu dân hóa” trong một môi trường xã hội và chính trị cực đoan, bảo thủ, bưng bít và độc quyền, từ đó dẫn đến tình trạng tinh thần thủ phận, yếm thế, tự ti về thân phận nhỏ nhoi, nghèo đói mà tự đánh mất nhân phẩm của mình lúc nào không hay.

Sau nhiều thập niên người dân sống trong môi trường và điều kiện như vậy, một trong những việc trước tiên cần làm là xây dựng lại một xã hội dân sự (civil society) trên nền tảng của một nền văn hóa công dân (civic culture). Ý thức, văn hóa công dân trong một xã hội dân sự cần được giáo dục cụ thể và thường trực, nhằm góp phần canh tân chính mỗi con người Việt Nam từ bản chất văn hóa cho đến cách hành xử trong xã hội. Luật pháp và vũ lực chỉ được dùng để trừng trị con người chứ không có khả năng giáo dục và canh tân con người. Muốn giúp người dân thực sự thì chính quyền hãy cho người dân những quyền tự do căn bản của một con người và xây dựng một xã hội dân sự công bằng, mà nơi đó người dân được quyền tự do và không còn lo sợ khi cần nói lên những bức xúc, bất công trong xã hội. Chỉ khi nào người dân cảm thấy và thực sự có quyền để làm chủ (dân chủ) và định đoạt được tương lai của mình và gia đình mình thì lúc ấy chính họ mới ý thức được và hành xử quyền công dân của mình. Chỉ khi nào người dân được tạo đủ điều kiện để thu nhận kiến thức, tiếp xúc, trao đổi, phổ biến quan điểm một cách tự do với nhau, được đối xử bình đẳng trong xã hội thì những tâm lý tự ti, buông xuôi và những hiện tượng bị lạm dụng và xâm hại về nhân phẩm, thể xác mới có thể được ngăn chặn một cách triệt để hơn. Đây mới thực sự là một chiến lược lâu dài để canh tân con người và nhằm giải quyết những căn bệnh xã hội hiện nay tại Việt Nam. (Đ.V.)

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ông Tô Lâm (trái) và ông Vương Đình Huệ. Ảnh: Thanh Niên

Về cuộc tranh giành quyền lực ở Ba Đình

Tin đồn mới nhất cho biết ông Huệ vẫn kiên cường chống trả, chưa chịu buông giáo đầu hàng dù tay chân thân tín đã bị ông Lâm tóm gọn. Có thể ông Huệ còn trông mong vào sự cứu viện của hoàng đế Tập Cận Bình bên Tàu. Nhưng trận đấu chỉ giằng co thêm một vài ngày nữa thôi, vì theo quy định của đảng CSVN, ông Huệ khó mà tránh được tội liên đới “trách nhiệm của người đứng đầu” khi các đàn em sa vào vòng lao lý, chưa kể ông Lâm còn nhiều độc chiêu sẽ tiếp tục tung ra để buộc ông Huệ phải cởi giáp quy hàng.

Lính hải quân Campuchia tại căn cứ hải quân Ream ở Preah Sihanouk trong một chuyến thăm do chính phủ tổ chức hôm 26/7/2019. Ảnh minh họa: AFP

Quân cảng Ream và Kênh đào Funan của Campuchia: nỗi lo lớn đối với Việt Nam

Hôm 18/4/2024, Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố thông tin về hai tàu hải quân Trung Quốc đã đậu ở căn cứ hải quân Ream của Campuchia trong hơn bốn tháng…

Từ đó, AMTI đặt câu hỏi liệu sự hiện diện thường trực của hải quân Trung Quốc tại quân cảng Ream đã được thiết lập trên thực tế hay mới chỉ là “lời đồn.”

Theo các chuyên gia, sự kết hợp giữa quân cảng Ream và kênh đào Phù Nam [Funan Techo] có thể tạo mối đe dọa an ninh truyền thống (quân sự) và an ninh phi truyền thống (môi trường, kinh tế, chính trị) đối với Việt Nam.

HRW đưa ra lời kêu gọi trước dịp diễn ra tiến trình Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam ngày 7/5/2024. Nguồn: HRW

HRW kêu gọi LHQ gây áp lực để Việt Nam cải thiện nhân quyền

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền hôm 22/4 hối thúc các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc nên tận dụng đợt rà soát hồ sơ nhân quyền sắp tới của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền LHQ để gây áp lực buộc Hà Nội chấm dứt đàn áp những người bất đồng chính kiến và các quyền cơ bản.