Tuyên bố chung nhân các cuộc biểu tình chống Trung Cộng của Đồng bào Việt Nam trong tháng 06-2011

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam

Trong tháng 6 năm nay, nhà cầm quyền Trung Cộng đột nhiên gia tăng gây hấn với Việt Nam trên Biển Đông, cụ thể và đặc biệt là đã đi vào lãnh hải đất nước để cắt cáp ngầm tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam ngày 26-05 rồi 09-06-2011.

Hành động ngang ngược này lập tức khơi dậy lòng ái quốc của nhân dân. Nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra sôi nổi tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn cũng như đã bị cấm cản tại Hải Phòng, Vinh và Đà Nẵng vào các Chủ nhật 05, 12 rồi 19-06-2011. Thế nhưng, y như trong các cuộc xuống đường năm 2007-2008, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, thay vì tỏ lòng biết ơn và tạo điều kiện thuận lợi cho các hành động của nhân dân chống hiểm họa ngoại bang xâm lược, tương tự tại bao quốc gia khác, lại dùng vô số thủ đoạn, thậm chí đểu cáng và hung bạo để trấn áp lòng ái quốc.

Trước tình thế đó, Khối 8406 và Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền nhận định:

Như cụ Nguyễn Trãi từng nói: “Mọi chuyện đều có nguyên nhân của nó, nhưng không phải việc của một ngày”, thái độ lạ lùng của nhà cầm quyền CSVN nói trên bắt nguồn từ lâu trong quá khứ, qua một tiến trình dài như sau:

1- Khi người Pháp sắp rút khỏi Đông Dương, với tinh thần Đại Hán tăng cường bởi tinh thần Cộng sản, Trung Hoa tiếp tục dòm ngó Việt Nam và họ đã tìm thấy một trợ thủ đắc lực. Đó là ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động (tiền thân đảng Cộng sản), vốn rất sùng bái, hãi sợ và luôn học đòi Mao Trạch Đông. Trước hết, ông Hồ đã đê hèn chấp nhận sự buôn bán chính trị giữa Trung Cộng với các cường quốc (thông qua vai trò xấu xa của Chu Ân Lai) tại Hội nghị Genève (1954) trên lưng dân Việt. Điều này khiến cho đất nước bị phân đôi và cuộc chiến tranh Đông Dương lần 2 (1954–1975) nổ ra (trong khi các nước trong khu vực có cùng điều kiện địa chính trị như Đông Dương đã tránh được). Đây chính là tội ác lớn nhất đối với Dân tộc. Tiếp đến, dưới sự chỉ đạo của Mao, rập khuôn mẫu Trung Cộng và được các cố vấn Trung Cộng trợ giúp, Hồ Chí Minh đã tàn hại đạo đức phong hóa nông thôn, cơ cấu làng xã họ tộc truyền thống, tiềm lực nhân sĩ lãnh đạo qua vụ Cải cách Ruộng đất, đã tiêu diệt bao tài năng nhiệt huyết trí thức qua vụ Nhân văn Giai phẩm và vụ Chỉnh đốn Tổ chức. Đây là một sự xâm hại sinh khí và nền văn hóa Dân tộc rất nghiêm trọng.

2- Khi Mao Trạch Đông tiến hành kế hoạch mở rộng đế quốc Cộng sản và nhất là lãnh thổ Trung Hoa xuống Đông Nam Á qua việc giúp đỡ Việt Nam Dân chủ xâm chiếm Việt Nam Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã dâng cho Trung Cộng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên danh nghĩa (qua công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng ký năm 1958), đã để cho Trung Cộng chiếm cứ đồn biên phòng yếu huyệt ngàn năm là Nam Quan ải, đem quân xâm nhập sâu vào miền Bắc gọi là giữ giùm hậu phương, len lỏi vào tận hàng lãnh đạo của đảng CSVN để gọi là bảo đảm sự đoàn kết giữa hai chính đảng và chính thể. Đây là một sự xâm hại nền chính trị quốc gia hết sức nguy hiểm.

3- Khi cuộc thôn tính miền Nam kết thúc, do bị Trung Cộng đòi nợ chiến phí bằng đất đai Tổ quốc và quyền lợi kinh tế trên đất Việt, do mù quáng tin tưởng vào tình hữu nghị Trung-Việt (16 chữ vàng và 4 tốt) cũng như do yếu nhược phải cậy dựa vào đàn anh duy nhất hùng mạnh còn lại, đảng CSVN đã nhượng cho Trung Quốc gần cả ngàn km2 lãnh thổ (trong đó có nhiều điểm chiến lược) qua Hiệp định biên giới năm 1999, gần 10.000 km2 lãnh hải qua Hiệp định vịnh Bắc bộ năm 2000, cả vùng Tây Nguyên yếu huyệt qua Quyết định năm 2007 cho Trung Cộng khai thác bauxite; đã cho Trung Cộng thuê hơn 300.000 hecta rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, xây nhiều làng mạc và đô thị Trung Cộng từ Nam chí Bắc, đi vào đất Việt không cần thị thực nhập cảnh, trúng thầu phần lớn các công trình xây dựng, kinh tế lớn trong đất nước, tuôn tràn vào Việt Nam các sản phẩm văn hóa, kỹ thuật, ẩm thực (đa phần kém chất lượng hay độc hại)… Đây là một sự xâm hại nền kinh tế và quốc phòng đất nước rất đáng lo âu.

4- Khi Trung Cộng quyết định mở rộng chủ quyền trên Biển Đông những năm gần đây qua yêu sách “Đường lưỡi bò 9 đoạn”, Hà Nội tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao ngây thơ (dựa trên bảng phân loại các nước thành bạn hay thù, chứ không phải trên quyền lợi quốc gia lẫn tương quan lợi quyền quốc tế) và thái độ ngày càng khiếp nhược trước Trung Cộng dưới mỹ từ “hiếu hòa hữu nghị”, do đó đã bị Trung Cộng ngày càng lấn lướt trên Biển đông: cấm cản, xua đuổi, bắt tù, cướp bóc, bắn giết ngư dân Việt; thúc giục, bảo vệ ngư dân Tàu vào đánh cá ngay trong thềm lục địa nước Việt; hăm dọa các công ty khai thác dầu hỏa ngoại quốc muốn làm ăn với Hà Nội; và mới nhất là xâm phạm lãnh hải Việt Nam để hăm dọa và phá hoại những tàu thăm dò khoáng sản của Việt Nam. Đây là một sự xâm hại chủ quyền quốc gia rất trắng trợn.

Thế mà nhà cầm quyền CSVN lại phản ứng bằng cách bỏ mặc ngư dân bơ vơ trước sói dữ, lấy cớ tàu quân sự không xen vào chuyện dân sự; bằng cách tiếp tục hợp tác toàn diện với lân bang luôn nuôi mộng Đại Hán xâm lược; bằng cách từ khước liên minh với lực lượng hùng mạnh của các quốc gia văn minh dân chủ; bằng cách giấu nhẹm thông tin về vụ việc trước quốc dân và không trình vụ việc lên tòa án quốc tế; bằng cách ngăn cản, sách nhiễu, hăm dọa hoặc bỏ tù những ai lên tiếng chống Trung Cộng xâm lược qua các bài viết hay các cuộc biểu tình. Những phản ứng gần đây như cho phát ngôn viên bộ Ngoại giao lên tiếng, như tới gặp đại sứ Trung Cộng trao công hàm đều chứng tỏ tinh thần yếu nhược; như mua thêm khí tài quân sự, như tập trận bắn đạn thật trên biển Đông chỉ là trò đánh lừa dư luận, hóa giải sự phẫn nộ của nhân dân, chẳng mảy may hiệu quả gì.

5- Những động thái trên cho thấy Trung Cộng ngày càng trở thành hiểm họa xâm lăng đối với Việt Nam, nguy cơ Bắc thuộc lần thứ 5 đang đến gần; cũng như cho thấy nhà cầm quyền Hà Nội ngày càng lộ rõ bộ mặt phản dân hại nước, đặt quyền lợi của đảng và phe phái trên quyền lợi của quốc gia và dân tộc, sẵn sàng bán đất biển, nhường quyền lợi để giúp Trung Cộng có điều kiện tiến lên địa vị siêu cường, bá chủ thế giới, hầu Việt cộng tiếp tục cai trị trên một Việt Nam sẽ trở thành Giao chỉ quận.

II- Trước nguy cơ ấy, Khối 8406 và Nhóm Lm Nguyễn Kim Điền tuyên bố:

1- Lên án thái độ đồng lõa với giặc – gian ác với dân, lụy phục ngoại thù – phản bội tổ quốc của đảng Cộng sản Việt Nam. Một thái độ không bao giờ thay đổi kể từ khi Hồ Chí Minh và đảng CS cầm quyền trên đất nước. Lên án thái độ dửng dưng của tân Quốc hội, vốn chẳng có thành viên nào tham gia các cuộc biểu tình bày tỏ tấm lòng yêu nước và ý chí chống giặc nói trên. Điều đó tiếp tục chứng tỏ Quốc hội chỉ là công cụ đê hèn trong tay Cộng đảng khiếp nhược.

2- Đòi hỏi đảng CSVN, nếu muốn có đường sống và chỗ đứng trên đất nước Việt Nam, hãy trở về với nhân dân bằng cách thả hết các tù nhân chính trị vốn đã bị giam giữ vì lòng ái quốc, chấm dứt chế độ chuyên chế độc tài, bãi bỏ quan niệm “chỉ đảng mới có quyền lo việc nước”, phủ nhận Công hàm bán nước 1958 và các Hiệp ước bất bình đẳng với Trung Cộng, kiện Trung Cộng trước tòa án Liên Hiệp quốc, quyết liệt truy đuổi tàu Trung Cộng xâm phạm lãnh hải (như gương Philippin, Hàn Quốc, Nhật Bản…), hủy bỏ các tô giới Trung Cộng trên đất liền, thôi trấn áp lòng yêu nước biểu lộ qua những cuộc biểu tình hay những lời lên tiếng chống quân xâm lược, trả lại mọi nhân quyền cho toàn dân để có thể thực hiện đại đoàn kết theo tinh thần Hội nghị Diên Hồng.

3- Hoan nghênh và ủng hộ các cuộc biểu tình bất bạo động mà Đồng bào khắp cả nước (đặc biệt các bạn trẻ sinh viên, các trí thức nhân sĩ và các bậc trưởng thượng vị vọng) đã, đang và sẽ còn tiến hành để bày tỏ tấm lòng ái quốc, sức mạnh dân tộc, tinh thần đoàn kết và thái độ sẵn sàng hỗ trợ cho một chính phủ biết đặt quyền lợi Tổ quốc lên hàng đầu. Yêu cầu lực lượng công an quân đội chớ để mình hay tự mình biến thành kẻ thù của nhân dân bằng cách đàn áp những tấm lòng yêu nước theo lệnh các lãnh đạo CS. Bằng không anh em sẽ đắc tội trước lịch sử và sẽ trực tiếp hứng chịu sự trừng phạt của nhân dân khi những kẻ sai khiến anh em bỏ chạy ra nước ngoài.

4- Kêu gọi giới lãnh đạo tinh thần (trí thức dân sự và chức sắc tôn giáo) thể hiện tinh thần sĩ phu yêu nước, đoàn kết nên một, đứng ra lãnh đạo toàn dân, điều hướng sức mạnh của mọi lực lượng quần chúng chống lại nội thù bán nước và ngoại thù cướp nước. Kêu gọi các tôn giáo liên tục tổ chức những buổi cầu nguyện cho Quê hương, cho các tù nhân lương tâm, cho các nạn nhân bị bóc lột, để khơi gợi ý thức và củng cố tinh thần cho tín đồ.

5- Thỉnh cầu Đồng bào hải ngoại tiếp tay với quốc nội bằng cách hỗ trợ các cuộc xuống đường biểu tình của quốc nội, bằng cách xiển dương chính nghĩa cuộc đấu tranh chống ngoại thù và nội thù của Dân tộc trước thế giới, bằng cách vận động quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh này qua việc giúp nhân dân Việt Nam giải thể cho được chế độ độc tài toàn trị Cộng sản…

Làm tại Việt Nam ngày 25 tháng 06 năm 2011

Ban Đại diện lâm thời Khối 8406 và Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.

1. Linh mục Chân Tín, Dòng Chúa Cứu thế Sài Gòn, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn, Việt Nam
2. Kỹ sư Đỗ Nam Hải, 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, Việt Nam.
3. Linh mục Nguyễn Hữu Giải, Giáo xứ An Bằng, Vinh An, Tổng Giáo phận Huế.
4. Linh mục Phan Văn Lợi, 16/46 Trần Phú, Thành phố Huế, Việt Nam.
5. Linh mục Nguyễn Văn Lý, bị quản thúc tại 69 Phan Đình Phùng, Tp Huế, Việt Nam.
6. Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Đại diện Khối 8406 tại hải ngoại.

Trong sự hiệp thông với cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù Cộng sản.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.

Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo công bố báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ 4 (UPR), ngày 15/4/2024. Ảnh chụp Báo Tin Tức

Việt Nam bác bỏ các báo cáo ‘thiếu khách quan’ về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc

Trong báo cáo đề ngày 27/2/2024 được công bố trên trang web của LHQ, nhóm chuyên trách Việt Nam của LHQ cho hay ít nhất 150 nhà báo độc lập, những người bảo vệ nhân quyền, và các nhà hoạt động dân chủ, đất đai và tôn giáo còn bị giam cầm chỉ vì thực hiện các quyền cơ bản của họ một cách ôn hòa trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường, quyền của người thiểu số và phát triển dân chủ.