Đọc tập sách “Chết Bởi Trung Quốc” của tác giả Peter W. Navarro và Greg Autry (Phần 4)

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Sau đây là Phần 4 của bài điểm sách “Chết Bởi Trung Quốc” (Death by China) do Bình luận gia Lý Thái Hùng viết. Kính mời quý độc giả theo dõi tiếp.
BBT WebVT

— –

Chương 7: Death by Colonial Dragon: Locking Down Resources and Locking Up Markets Round The World.

Chết Bởi Rồng Thực Dân: Thâu Tóm Mọi Tài Nguyên và Thống Lĩnh Thị Trường Toàn Cầu.

 

Tờ Daily Mail Online đã viết về những chuyển động gần đây của Trung Quốc như sau: “Trong dòng chuyển động vĩ đại của con người mà thế giới chưa từng thấy, Trung Quốc đang bí mật tích cực chuyển đổi toàn bộ lục địa Phi Châu thành một thuộc địa mới. Điều này khiến người ta nhớ lại chính sách thực dân của Phương Tây trong thế kỷ 18 và 19 – nhưng trên một quy mô nghiêm trọng và quyết liệt hơn rất nhiều, lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Châu Phi có thể trở thành một nhà nước vệ tinh, giải quyết những vấn đề nội tại của chính Trung Quốc như nạn “nhân mãn” với dân số quá đông và khan hiếm tài nguyên.”

JPEG - 36.7 kb
Chủ tịch nước Hồ Cầm Đào được chào đón tại sân bay Lusaka nước Zambia, Phi Châu.

Theo tác giả thì trong khi các công xưởng tại Hoa Kỳ bị phủ đầy bụi hơn bao giờ hết, trong khi những nhà ngoại giao và các lãnh đạo quân đội tiếp tục tầm nhìn thiển cận về Trung Đông và trong khi các chính trị gia tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn đang ngủ kỹ, Trung Quốc cứ tiến quân. Đội quân một triệu người đang di chuyển không ngừng qua Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh để tìm cách thâu tóm mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên và thao túng những thị trường mới trổi dậy và loại trừ Hoa Kỳ, Âu Châu, Nhật Bản và những nền kinh tế khác của thế giới ra khỏi những cải tổ của thịnh vượng tương lai. Đó mới chỉ là một trong nhiều cái đinh đóng vào cỗ quan tài của Hoa Kỳ và những hạ tầng sản xuất toàn cầu; và đã đến lúc thế giới bắt đầu chú ý đến đế quốc thuộc địa đang vươn lên giữa chúng ta.

Con Rồng thực dân Trung Quốc chính là đứa con hoang của Con Rồng Sản Xuất Đói Ăn – một khu vực sản xuất vốn đã tiêu thụ phân nửa lượng xi măng thế giới, gần phân nửa số thép thế giới, một phần ba số lượng đồng, và một phần tư lượng nhôm, cùng với những số lượng lớn lao về đủ mọi thứ từ antimony, chromium, và cobalt cho đến lithium, gỗ, và kẽm. Chính tất cả những tài nguyên này và những thứ khác, đến từ khắp nơi trên thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế và phẩm chất đời sống của mỗi quốc gia– và chung lại, đó là những nguồn nguyên liệu thô để tạo ra tất cả những công việc sản xuất và dịch vụ liên hệ.

Quặng Bauxite và Sắt đến từ Guinea và Tanzania được chế biến thành nhôm và thép mà chúng ta cần để chế tạo máy bay ở Seattle, tiểu bang Washington; và chế tạo tàu thủy ở Bath, tiểu bang Maine. Quặng Đồng từ Chile làm thành dây điện sử dụng trong nhà, Cobalt từ Congo giúp chế tạo các máy móc tại các cửa hàng ở Michigan, và chất Niobium từ Brazil cần cho mọi thứ từ những động cơ hỏa tiễn dùng cho quốc phòng đến những lò phản ứng nguyên tử để thắp sáng nhà của chúng ta.

Chất Lithium từ Bolivia và Namibia sẽ là nhiên liệu cho những bình ắc quy sử dụng cho các loại xe hybrid (vừa dùng xăng, vừa dùng điện), manganese từ Gabon giúp làm khuôn cho hàng tỷ lon có thể tái chế dùng đựng các thức uống, và titanium từ những nơi như Mozambique, Madagascar và Paraguay giúp sản xuất mọi thứ cần tỷ lệ độ cứng/trọng lượng cao – từ những kỳ xảo của thế kỷ 21 như máy bay tiết kiệm nhiên liệu mới 787 Dreamliner của hãng Boeing đến hông và đầu gối giả của hãng Johnson & Johnson.

Tất cả những tài nguyên thiên nhiên này từ các quốc gia khác nhau trên thế giới mà Trung Quốc hiện nay muốn giành lấy hết cho riêng mình để xử dụng cho hạ tầng sản xuất và bộ máy tạo công ăn việc làm của họ. Và nếu chúng ta bàng quang đứng nhìn trên sân khấu toàn cầu và cho phép điều này xảy ra, thì chẳng khác nào chúng ta tự đào mồ chôn kinh tế của mình bằng cái xẻng mạ vàng chế tạo từ Thượng Hải. Nhưng chuyện đó đang xảy ra, và tất cả chúng ta cần hiểu rõ trò chơi thực dân “mồi câu và lật lọng” (bait and switch) của Bắc Kinh, nếu chúng ta muốn đối phó với đế quốc đang vươn lên này trên những vấn đề thiết yếu cho sự sống còn của cả nền kinh tế lẫn an ninh quốc gia.

Mồi Câu và Lật Lọng (Bait And Switch)

Chiến lược “Mồi Câu và Lật Lọng” của Trung Quốc luôn luôn bắt đầu cùng một cách: Chủ tịch nước, Thủ tướng, hay Bộ trưởng của họ đi đến thủ đô của vài quốc gia xa xôi như Djibouti hay Niger, Somalia mà phần lớn người Mỹ thậm chí không biết đến trên bản đồ. Họ đến vẫy tay với tấm ngân phiếu to lớn hứa hẹn sẽ cho những khoản tiền vay hấp dẫn với lãi xuất thấp để xây dựng hạ tầng dân sự lẫn quân sự – như đường xá, hải cảng và đường xa lộ, một cung điện nguy nga và sang trọng cho những tay bạo chúa hay những khẩu súng AK 47 dùng để kềm kẹp một dân tộc bất mãn dưới gót giày áp bức.

Để đổi lấy sự hào phóng của Trung Quốc, tất cả những thuộc địa vừa chớm nở phải làm hai điều: Một là họ phải trao quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên để đổi lấy tiền vay – như vậy cho phép Trung Quốc thâu tóm tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa để xử dụng cho mình. Hai là phải mở cửa thị trường cho tất cả những sản phẩm công xưởng Trung Quốc đã sản xuất từ những nguyên liệu mà thuộc địa cung ứng – như vậy cho phép Trung Quốc khuynh loát thêm một thị trường mới trổi dậy.

Thực ra, kế hoạch quả đấm sắt (brass – knuckled) của Trung Quốc để thu tóm tài nguyên khác hẳn với phương pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, những nước này nhờ vào thị trường toàn cầu để phân phối năng lượng và nguyên liệu qua hệ thống giá cả. Dựa trên thị trường như thế để phân phối tài nguyên thiên nhiên là bản chất của một nền kinh tế toàn cầu dựa trên lợi ích của cộng đồng. Nhưng thay vì dựa trên chủ nghĩa tư bản hợp tác, các tay tư bản thực dân Bắc Kinh lại đặt một dấu chấm than trên vế “thực dân” của phương trình.

Ngoài ra, tác giả còn cho rằng: sự mặc cả của Con Rồng, hiện đang tiến hành khắp Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh – và nhiều nước ở Trung Á – chính là định nghĩa sâu sắc của chủ nghĩa thực dân: thu tóm quyền kiểm soát những tài nguyên thiên nhiên vốn tiêu biểu cho của cải thực sự của một thuộc đia. Xuất khẩu những tài nguyên này ngược trở lại Trung Quốc thay vì cho phép thuộc địa xử dụng những tài nguyên này để phát triển kinh tế của chính họ. Sau đó tái xuất khẩu những nguyên liệu trở lại thuộc địa dưới những hàng hóa đã chế biến. Điều này như vậy đã tạo ra việc làm cho mẫu quốc, gia tăng lợi nhuận của những công ty mẫu quốc, và dĩ nhiên kéo dài tình trạng thất nghiệp tại thuộc địa. Những gì còn lại trong thuộc địa phần lớn chỉ là những công việc với đồng lương rẻ mạt trong các kỹ nghệ khai thác, trong khi tất cả những công viêc sản xuất có giá trị cao đều chuyển đến Quảng Châu, Thành Đô hay Thượng Hải. Tất cả những điều tốt để cho Trung Quốc; còn tất cả những thứ tệ hại để cho thuộc địa.

Chính Sách Ngoại Giao Bằng Tiền Của Trung Quốc.

Theo nhận xét của tác giả thì Trung Quốc đang tiến hành chính sách “Mồi Câu và Lật Lọng” ở khắp hoàn cầu. Để đổi lấy dầu hỏa, Trung Quốc đã cho Angola vay trên 10 tỷ Mỹ Kim và còn đang tiếp diễn. Cộng hòa dân chủ Công Gô đang vướng vào một trao đổi khai thác mỏ Đồng trị giá hàng tỷ Mỹ Kim với Trung Quốc cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở. Ghana đang trao đổi hạt Ca Cao, Nigeria thì bán khí đốt thiên nhiên cho Trung Quốc, và Sudan gia tăng trang bị quân sự qua việc thanh toán phí tổn và gánh nợ bằng dầu hỏa. Và không một nước nào trong số này được lợi thế hơn trong việc đổi chác.

Trong khi đó, tại Peru, Trung Quốc hiện đang sở hữu toàn bộ một quả núi có mỏ Đồng, và khi mua núi Toromacho của Peru, Bắc Kinh đã dùng ngay một phương châm (hay khẩu hiệu) nổi tiếng của ông W.C. Fields: “Đừng bao giờ tha kẻ dại” (Never give a sucker an even break). Thực vậy, một tay chuyên bắt chẹt giá Trung Quốc (a hard-bargaining China) đã chiếm được mỏ Đồng này với giá 3 tỷ Mỹ Kim, trả đứt mọi thứ và hiện đang hưởng 2,000% tiền lời trong việc đầu tư này. Trong khi đó, đói, dốt và nghèo – cùng những tai nạn hầm mỏ khủng khiếp và ô nhiễm môi sinh – vẫn còn là những sự kiện hàng ngày trong đời sống miền núi của Peru.

Cuộc đổi chác của Peru dù tệ hại cũng không thể bằng vụ Bắc Kinh lừa tên độc tài sát nhân Robert Mugabe của xứ Zimbabwe. Tên độc tài già mua và run rẩy này, vốn cai trị một trong những quốc gia giàu tài nguyên nhất và ít việc làm nhất thế giới, đã thế chấp trữ lượng kim loại quý Platium của Zimbabwe trị giá 40 tỷ Mỹ Kim để nhận lấy chỉ khoảng 5 tỷ Mỹ Kim từ Trung Quốc. Hắn đã sử dụng số tiền này để xây các cung điện mới, mua trực thăng và phi cơ phản lực chiến đấu, mua súng tiểu liên để đè lên cổ người dân Zimbabwe gót giày tàn bạo của độc tài toàn trị Trung Quốc. Chỉ có Trung Quốc có thể làm cho chủ nghĩa Kỳ thị chủng tộc của Zimbawee trước kia có vẻ tốt hơn so với tình trạng hiện nay.

“Rồi sao nào?”, có người sẽ hỏi. Chả lẽ Trung Quốc không có quyền hưởng những tài nguyên này giống như Hoa Kỳ, Âu Châu hay Nhật Bản? Và tại sao công dân Hoa Kỳ phải bận tâm nếu như Trung Quốc chỉ khai thác một vài quốc gia độc tài tham nhũng ở Phi Châu hay vài quốc gia lạc hậu tại Nam Mỹ? Nếu lãnh đạo của các địa ngục trần gian trong thế giới thứ 3 này quá tham lam và ngu dốt thì cứ để yên cho họ trở thành nạn nhân của chính sách ngoại giao bằng tiền của Trung Quốc? Điều gì khả dĩ có thể ảnh hưởng đến đời sống của nhân viên tại các công ty và nhà máy sản xuất đá graphite tại Illinois, hay Thủy tinh nhuộm màu tại Kokomo, Indiana hoặc đồ nội thất gỗ tại Asheboro North Carolina? Và làm thế nào vài chính sách thuộc địa hóa kiểu Trung Quốc lại có thể ảnh hưởng đến triển vọng công ăn việc làm của một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp đại học ngành hóa trường Cal – Berkeley hay một phụ nữ trẻ có bằng kỹ sư vừa rời trường George Tech? Thật ra, ít nhất đây là một câu trả lời:

Khi thìết lập mối quan hệ thuộc địa xuyên qua các Châu Phi, Châu Á và sân sau của Hoa Kỳ là Châu Mỹ La Tinh, Trung Quốc đang ngày càng nắm giữ nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên của thị trường thế giới cho riêng mình. Chính sách thao túng thuộc địa này đã cho các nhà sản xuất Trung Quốc độc quyền sử dụng các tài nguyên thiết yếu này với chi phí rẻ nhất, và do vậy họ dễ dàng có lợi thế cạnh tranh với Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới.

Trong thực tế, để thấy rõ điều mà Trung Quốc đang làm là hiểu chính sách thu tóm tài nguyên không gì khác hơn là Trung Quốc cấm vận thế giới sử dụng tài nguyên nhưng dưới một lớp nguỵ trang mỏng. Vì nếu các nhà sản xuất Trung Quốc có thể thao túng Bauxite từ Brazil, Guinea Xích Đạo, và Malawi; Đồng từ Congo, Kazakstan và Namibia; Sắt từ Liberia và Somalia; Mangan từ Burkina Faso, Campuchia và Gabon; Nickel từ Cuba và Tanxania; và Kẽm từ Algeria, Kenya; Nigeria; và Zambia; thì ngần ấy nguyên liệu sẽ ít đi cho các nhà máy tại Cincinmati, Menphis và Pittsburgh, hoặc Munich và Yokohama hay Seoul.

Cuộc cấm vận thực dân của Trung Quốc trong thực tế cũng đã hỗ trợ hàng tỷ tấn tài nguyên thiên nhiên và lý do tại sao các nhà máy sản xuất ô tô trong tương lai sẽ tập trung tại Lan Châu, Vũ Hán thay thế cho Detroit và Humtsville. Đó là lý do tại sao các loại máy bay của tương lai sẽ được chế tạo tại Bainzhou và Shenyang, Trung Quốc thay cho Seattle và Wichita, Hoa Kỳ; Tại sao các thế hệ tương lai của con chíp máy vi tính sẽ được chế tạo tại Đại Liên và Thiên Tân hơn là tại Thung lũng Silicon.


Dân Trung Quốc Tràn Ngập Phi Châu?

Ngay cả khi Trung Quốc bùng nổ kinh tế và các quốc gia sản xuất khác trên thế giới sẽ phá sản, những thuộc địa mới của Trung Quốc đang nẩy nở tại Châu Phi – từ Angola đến Zimbabwe – vẫn còn đắm chìm trong đói, nghèo và những cuộc nội chiến đẫm máu. Đây là sự thật mặc dù những thuộc địa này ngồi trên đỉnh những kho tàng quý giá nhất của trái đất.

Theo tác giả nhận định thì tình trạng nghèo nàn và nội chiến của Phi Châu là hệ quả trực tiếp phần “lật lọng” (switch) trong chính sách Mồi Câu và Lật Lọng (Bait and Switch) – thủ đoạn dùng tiền mua chuộc của Trung Quốc. Ngay từ đầu của mối quan hệ thực dân, Trung Quốc hứa hẹn rằng tất cả những món tiền cho vay để xây dựng hạ tầng cơ sở của xứ thuộc địa sẽ việc mang lại nhiều công việc làm và lương cao cho người dân địa phương. Tuy nhiên, sau khi ký xong giao kèo, Trung Quốc đã lật lọng: thay vì thuê mướn những kiến trúc sư, kỹ sư, công nhân xây dựng và những công ty vận tải bản xứ, Trung Quốc đã lặng lẽ xuất cảng “đạo quân một triệu người” của chính họ sang làm việc. Thực trạng đau buồn này tại thuộc địa Sudan đã được các tác giả của tập sách China Safari mô tả như sau:

“Người Trung Quốc khoan dầu và bơm nó vào đường ống của Trung Quốc, được bảo vệ bởi một tay Trung Quốc to con trên đường tới một bến cảng cũng được xây dựng bởi người Trung Quốc, nơi mà dầu sẽ được bơm lên những tàu dầu chở về Trung Quốc. Những công nhân Trung Quốc xây dựng đường sá, cầu cống và những đập nước khổng lồ khiến hàng chục ngàn chủ đất nhỏ nhoi tại địa phương phải di tản; người Trung Quốc trồng trọt thực phẩm Trung Quốc để những người Trung Hoa khác chỉ ăn rau quả Trung Quốc với những mặt hàng chủ lực nhập khẩu từ Trung Quốc; Người Trung Quốc võ trang cho một chính quyền đang phạm tội chống lại nhân loại; và người Trung Quốc bảo vệ chính phủ đó và bênh vực nó tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.”

JPEG - 45 kb
Một công nhân Trung Quốc Tại Sudan

Ngoài ra, theo tác giả thì bí mật nhơ bẩn nhất của tham vọng thực dân Trung Quốc là xuất khẩu hàng triệu công dân Trung Quốc một cách có hệ thống sang những quốc gia vệ tinh ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh để giảm bớt áp lực nạn nhân mãn tại Đại lục. Trong tập sách “China Safari”, một nhà khoa học Trung Quốc mô tả chiến lược di dân này như sau: “Chúng tôi có 600 con sông ở Trung Quốc, 400 trong số này đã bị chết bởi ô nhiễm… chúng tôi sẽ phải gửi đi ít nhất 300 triệu người sang Phi Châu…” Khi Namiba không thể trả nổi hàng tỉ Mỹ kim tiền vay, Bắc Kinh đã xiết nợ bằng cách buộc chính quyền Namiba phải chấp nhận để cho hàng ngàn gia đình người Trung Quốc di dân sang Namiba. Thỏa ước mật này bị tiết lộ qua WikiLeads khiến cho người dân xứ này phẫn nộ dữ dội.

Một nhà báo gốc Phi Châu đã từng nhận giải thưởng báo chí Andrew Malone đã kể về diễn tiến di dân Trung Quốc tại Phi Châu như sau:

“Với một nhóm nhỏ ban đầu ít ai để ý, bỗng chốc một cộng đồng 750 ngàn người Trung Quốc đã định cư tại Phi Châu hơn một thập kỷ qua. Nhiều người nữa đang trên đường đến. Chiến lược này đã được hoach định cẩn thận bởi những quan chức tại Bắc Kinh; ở đó, một chuyên gia đã ước tính rằng Trung Quốc sẽ gửi đi 300 triệu dân sang Phi Châu để giải quyết những vấn đề nhân mãn và ô nhiễm. Kế hoạch đang khởi động. Xuyên qua Phi Châu, cờ đỏ Trung Quốc đang tung bay. Những cuộc mặc cả béo bở đang được đánh đổi để mua những hàng hóa Trung Quốc – dầu hỏa, bạch kim, vàng và khoáng chất. Những tòa đại sứ mới và đường hàng không đang mở ra. Tầng lớp ưu tú của Trung Quốc có thể nhìn thấy khắp mọi nơi, đang mua sắm tại những cửa hàng đắt tiền, lái xe Mercedes và BMW, gửi con học những trường tư dành riêng… Trên khắp lục địa to lớn này, sự hiện diện của Trung Quốc đang phình to như cơn lũ… sống riêng biệt, những chung cư có cổng, chỉ phục vụ thực phẩm Trung Quốc, và ở đó người da đen không được phép vào. “Vải Phi Châu” (African Cloths) bày bán các chợ khắp lục địa cũng là đồ nhập khẩu, chế tạo từ Trung Quốc.”

Trung Quốc không chỉ xuất khẩu di dân, theo tờ Economist thì Trung Quốc còn thâu tóm hơn 7 triệu mẫu tây đất sản xuất dầu cọ (Palm Oil) chủ yếu tại Congo để phục vụ cho nhu liệu sinh học. Ở Zambia, những nông trại của Trung Quốc đã “sản xuất một phần tư số trứng bán ra ở thủ đô Lusaka.” Còn tại Zimbabwe, theo tờ Tuần Báo Standard, chế độ Mugabe đã đi xa hơn khi cho phép các công ty quốc doanh Trung Quốc được tự do sở hữu các nông trại của những người da trắng trước đây.

Ngoài cuộc di dân ào ạt của các nông dân Trung Quốc, từng làn sóng thương nhân Trung Quốc tràn ngập cả Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Một số đến với cơn lũ hàng hóa Trung Quốc tràn ngập các thành phố lớn như Kinshasha, Kampala, Lagos, Lima, và Santiago. Những đợt khác – là những thương nhân thuộc loại mạo hiểm hơn – bốc giỡ hàng hóa từ tàu và máy bay để phục vụ những thành phố đang bùng nổ sự phát triển ở vùng xa mọc lên chung quanh những dự án xây cất của Trung Quốc ở khắp các lục địa Phi Châu và Nam Mỹ.

Tại Sao Trung Quốc Được Đón Chào Các Nơi?

Qua những phân tích bên trên, tác giả đã nhận định rằng, nhà cầm quyền Trung Quốc đã và đang xuất khẩu hiệu quả những vấn đề kinh tế và thất nghiệp của chính họ sang những thuộc địa mới trong khi đẩy dân bản xứ thành những đội ngũ sống nhờ vào trợ cấp xã hội hay đi ăn xin ngoài đường phố. Nhưng đây không phải là những xuất khẩu độc hại duy nhất. Theo tác giả, Trung Quốc cũng đang xuất khẩu chính sự khinh thường tột đỉnh mà họ thể hiện trên chính đất của họ liên quan đến an toàn lao động và bảo vệ môi sinh. Người ta cho rằng, nếu như lãnh đạo Trung Quốc đã không có thiện chí bảo vệ những công nhân của họ ngay tại Đại Lục thì đừng chờ mong Bắc Kinh sẽ hành xử tốt hơn đối với những công nhân và môi trường tại các hầm mỏ Cobalt ở Congo, những khu rừng ở Gabon, mỏ Bạc ở Peru hay mỏ Đồng ở Zambia.

Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là tại sao có quá nhiều quốc gia Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu đều đang mở rộng vòng tay chào đón Trung Quốc như vậy?

Đa số những quốc gia đón chào Trung Quốc là những nhà nước độc tài, nơi mà những luật lệ được ban hành bởi các tay quân phiệt, cộng sản, những tên sát nhân hàng loạt vô nhân tính, hoặc những nhà nước dân chủ trá hình. Các thể chế dân chủ giả mạo như Angola, Sudan, Zimbabwe luôn luôn đứng đầu trong danh sách các quốc gia này. Tại những quốc gia Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh khác, có đặc điểm là nền dân chủ rất yếu hoặc phe quân đội nắm quyền lực mạnh mẽ. Nguyên tắc thực dân của Trung Quốc dựa trên điều mà Hồ Cầm Đào, chủ tịch nước Trung Quốc đã nói trước Quốc hội Gabon là: “Chỉ có kinh doanh, không đề cập tới chính trị.”.

Qua câu nói của họ Hồ người ta đã thấy bản chất phi đạo đức của lãnh đạo Bắc Kinh. Trung Quốc làm kinh doanh với bất kỳ chính phủ nước nào, bất chấp tình trạng đàn áp nhân quyền, tham nhũng, phi dân chủ. Để làm điều đó, Bắc Kinh chìa bàn tay giúp đỡ trong bối cảnh khủng hoảng và đề nghị giúp đỡ với các điều khoản kinh doanh bất chấp tình trạng nhân quyền hay minh bạch tài chánh của các nước thuộc địa mới này.

Khi các quốc gia Phương Tây cố gắng tạo áp lực đối với những xứ độc tài vi phạm nhân quyền, thì Con Rồng thực dân lại tìm cách đi cửa sau. Khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao và thương mại với Sudan vì chính quyền này đã đàn áp và giết chết nhiều người Phi Châu tại Darfur, hoặc khi Liên Hiệp Quốc áp dụng lệnh cấm vận quân sự vào bờ biển Ngà hoặc Siera Leone, hoặc khi Châu Âu áp lực Etriea hoặc Somalia, hay khi toàn thế giới chống lại nhà độc tài Robert Mugabe của Zimbabwe thì Bắc Kinh lại đi cửa hậu để tranh thủ họ. Bắc Kinh đưa một số những đề nghị béo bở với các tay độc tài này – bất cứ điều gì đối tác mong muốn – từ các vũ khí hạng nhẹ và máy bay chiến đấu đến các máy tính đời mới và hệ thống viễn thông hiện đại để giúp họ củng cố quyền lực hầu làm ăn với Bắc Kinh.

Ngoài ra, điều mà người ta đang lo ngại hiện nay là một vài quốc gia phát triển kinh tế và có nền dân chủ vững mạnh như Úc Đại Lợi, Brazil và Nam Phi vẫn có nguy cơ bị quyến rũ bởi chính sách “dùng tiền mua chuộc” của Trung Quốc. Trường hợp Úc Châu, đây là quốc gia có dân số được hưởng nền giáo dục tốt, lực lượng lao động có kỹ năng cao, và hầu như có tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết để trở thành một cường quốc kỹ nghệ. Tuy nhiên, thay vì phát triển các ngành công nghệ để chế biến tài nguyên thiên nhiên và dùng nó để sản xuất hàng hóa, các nhà lãnh đạo Úc đã suy nghĩ ngắn hạn cho rằng cứ đơn thuần để cho Trung Quốc vào mua, và đào xới các tài nguyên giàu có, và chở nó về Trung Quốc với giá rẻ mạt.

Trong ít năm gần đây, các công ty như Yanzhou Coal Mining, China Minmetals, Human Valin Ste el & Iron, China Metallurgical, và Shanghai Baosteel đã đạt được những hợp đồng to lớn về nguyên liệu thô. Điều này tuy là mối lợi lớn cho hàng trăm gia đình thượng lưu Úc, nhưng về lâu dài thì đó là nguyên nhân của sự nghèo đói một khi Trung Quốc đã khai thác hết những hầm mỏ của Úc. Thậm chí trong ngắn hạn, nước Úc đang nắm đầu cụt của cây gậy thực dân. Đó là bởi vì khi Trung Quốc gửi lại Úc những thành phẩm được sản xuất với nguyên liệu của Úc, lúc đó Úc sẽ chịu thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc – bất chấp nguồn tài nguyên thiên nhiên bao la của họ.

Cả hai quốc gia Brazil lẫn Nam Phi đều có nhiều điểm tương đồng với Úc – cùng nằm trên thuyền thực dân – thậm chí còn bị nhiều chỗ lủng hơn nữa. Cả hai quốc gia đều ngồi trên một loạt kho tàng vô cùng đa dạng. Cả hai quốc gia đều có một giai cấp trung lưu mới trổi dậy và một cơ hội gia nhập đội ngũ của những quốc gia công nghiệp. Tuy nhiên, cả hai quốc gia đều giao nạp quá nhiều những tài nguyên thiên nhiên cho Trung Quốc – và đang bị thâm thủng mậu dịch rất lớn trong tiến trình đó.

Tóm lại, tác giả muốn nhấn mạnh ở phần cuối chương này là Trung Quốc đang có một chiến lược thâu tóm tài nguyên để giữ cho các nhà máy của họ hoạt động. Trong khi đạo quân một triệu người của Trung Quốc tràn sang Phi Châu, Á Châu và Châu Mỹ La Tinh để thực hiện chiến lược thâu tóm tài nguyên thiên nhiên, khuynh loát thị trường và khóa chặt phần còn lại của thế giới, thì con Đại Bàng Mỹ vẫn nằm yên dưới đất. Âu Châu vẫn bị chết cứng trong thái độ bất hợp tác cố hữu, và Nhật Bản thì đơn thuần bị tê liệt vì sợ hãi. Điều này không phải luôn luôn như vậy – ít nhất là đối với Hoa Kỳ.

Chương 8: Death By Blue Water Navy: Why China’s Military Rise Should Red Flags
Chết Bởi Hải Quân Nước Xanh: Tại Sao Cần Báo Động Đỏ Sự Trổi Dậy Của Quân Đội Trung Quốc.

 

JPEG - 50.5 kb
Shi Lang (Thi Lang): Hàng Không Mẫu Hạm Đầu Tiền Của Trung Quốc

Lần cuối cùng mà Phương Tây chú ý đến quân sự Trung Quốc là ngày 4 tháng 6 năm 1989. Đó là ngày những xe tăng của Con Rồng cán qua những xác người và xe đạp ở Quảng Trường Thiên An Môn và lực lượng xung kích hiếu sát đã thực tập tác xạ vào những người phản kháng dọc chân tường của Cấm Thành.

Kể từ cuộc đổ máu đó cách nay hơn hai thập niên, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không có thái độ nhẹ nhàng hơn đối với các nhà phản kháng chính trị. Điều thay đổi đáng kể là kho vũ khí quân sự của họ

Thực vậy, Bộ binh, Không quân, và đặc biệt là Hải quân Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt vĩ đại về phía trước trở thành lực lượng được trang bị dữ dội nhất trên thế giới. Bất hạnh thay, kho vũ khí sáng chói này bây giờ đang nhắm vào chúng ta.

Một trong những vũ khí giết người hàng loạt là đầu đạn Đông Phong 31A (DF-31A). Đây là một hỏa tiễn xuyên lục địa lưu động tầm xa (ICBM) khó phát hiện, càng khó xác định vị trí, và sẵn sàng phóng đi một đầu đạn nguyên tử một triệu megaton thẳng đến trước cửa nhà của bạn tại Des Moines, Iowa hay Decatur, Alabama. Hay là loại tàu ngầm nguyên tử có trang bị đầu đạn Ju Lang 2 (ICBM). Những hỏa tiễn “Sóng Thần” (Great Wave) này có thể được trang bị với nhiều đầu đạn có khả năng đốt cháy bất cứ thành phố nào ở Hoa Kỳ hay Âu Châu.

Và nói đến tàu ngầm, tác giả đã cho biết là trên đảo nhiệt đới Hải Nam, tỉnh cực Nam của Trung Quốc, Hải quân đã xây một địa đạo ngầm theo kiểu phim James Bond. Mục tiêu rõ ràng của căn cứ này là che chắn không cho vệ tinh Phương Tây nhìn thấy sự ra vào của hạm đội tàu ngầm – một hạm đội hiện thường xuyên xâm nhập lãnh hải của Nhật và cũng thường theo dõi tàu của Hoa Kỳ trên đại dương.

Đối với việc kiểm soát đại dương, Trung Quốc đã dùng hỏa tiễn chống tàu thủy DF-21D – một loại vũ khí thực sự thay đổi cuộc chiến hải quân. Nó là dàn phóng di động, Mach 10 (vũ khí chạy bằng nhiên liệu đặt và bay nhanh hơn vận tốc âm thanh 10 lần), được thiết kế để tấn công vào hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ từ Eo biển Đài Loan và Biển Nhật Bản xuống đến những bãi biển của Hawaii; và tử thần hung hiểm này chỉ có một mục tiêu: những hàng không mẫu hạm như USS George Washington, với thủy thủ đoàn gồm 5000 Thủy thủ và Phi công Hoa Kỳ.

Tất cả những vũ khí mà Trung Quốc xử dụng nói trên, theo tác giả thì nó không chỉ nhằm bảo vệ lãnh thổ mà còn để thực hiện “chiến dịch viễn dương” (expeditionary campaigns) của Bắc Kinh, đặc biệt là đối phó với Nhật Bản, Ấn Độ hay Việt Nam trong các cuộc xung đột cấp vùng. Ngoài ra, Trung Quốc còn xử dụng những vũ khí này để dành quyền kiểm soát của Hoa Kỳ trên những địa bàn chiến lược, những đường vận chuyển quốc tế, hay để cuối cùng tiến chiếm Đài Loan trong một trận đánh chớp nhoáng.

Đô Đốc Mike Muller, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cho rằng những gia tăng quân sự nhanh chóng của Trung Quốc hiện nay đã mâu thuẫn với chủ trương “trổi dậy hòa bình” của Thủ tướng Ôn Gia Bảo: “Những đầu tư to lớn của Trung Quốc trong lãnh vực hàng hải viễn dương hiện đại và những khả năng không quân có vẻ ngược với mục tiêu phòng thủ lãnh thổ. Mọi quốc gia đều có quyền tự vệ và chi phí thích ứng cho mục tiêu đó. Nhưng sự chênh lệch quá lớn như đang thành hình giữa ý đồ công khai của Trung Quốc và những chương trình quân sự của họ khiến tô rất thắc mắc về hệ quả sau cùng. Thực vậy, tôi đã đi từ hiếu kỳ sang quan ngại thực sự”.

Để giúp độc giả hiểu rõ tiềm lực quân sự của Trung Quốc và nhất là các ý đồ của Bắc Kinh trong việc hiện đại hóa quân đội, tác giả đã dành chương 8 đề cập về tiềm lực Bộ binh, Không quân và Hải quân của Trung Quốc. Riêng hai chương 9 và 10 thì tác giả đề cập về những hoạt động gián điệp của Trung Quốc mà tác giả gọi là “cuộc chiến không đối xứng” (asymetric warfare).


Duy Trì Lực Lượng Bộ Binh Lớn Nhất Thế Giới.

Từ thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã dựa trên một chiến lược quân sự là “đánh phủ đầu”. Ngày nay, mặc dù Trung Quốc đang hướng tới một cái nhìn hiện đại hơn về chiến tranh, vẫn tiếp tục duy trì một lực lượng bộ binh lớn nhất thế giới. Lực lượng này có đến 2,3 triệu; nhiều hơn tổng số quân của Gia Nã Đại, Đức, Hoa Kỳ và Anh cộng lại. Hơn nữa, bộ binh Trung Quốc được trang bị dồi dào nhất thế giới gồm xe tăng, pháo binh và vận chuyển. Chỉ riêng xe tăng không thôi, 6,700 xe tăng của Trung Quốc vượt xa 1,100 xe tăng của Đài Loan, 2,300 xe tăng của Nam Hàn và 1,000 xe tăng của Việt Nam. Ngay cả Hoa Kỳ ở giữa hai cuộc chiến ở Châu Á chỉ có khoảng 5,000 xe tăng.

Biểu tượng của sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ mới của Hồng Quân Trung Quốc là loại tăng chiến đấu “Type 99”, vốn là vũ khí tiên phong ngày nay cho nhu cầu hiện đại hóa lực lượng bộ binh của Trung Quốc. Thiết kế của xe tăng này phần lớn đánh cắp từ loại tăng đáng gườm T-72 của Liên Xô. Cỗ máy kỹ thuật cao cấp giết người này kết hợp tất cả mọi thứ từ hỏa tiễn hướng dẫn bằng laser và vệ tinh dẫn đường đến vỏ thép chống nổ để có thể chống đỡ những đầu đạn phá tăng.

Theo nhận định của tác giả thì Hồng Quân Trung Quốc là lực lượng viễn chinh đáng sợ. Lực lượng này còn có khả năng tiến hành chiến thuật biển người cổ điển mà thế giới đã từng chứng chiến trong các trận đụng độ bất ngờ với Ấn Độ (1962) và khiêu khích Việt Nam (1979).

Xây Dựng Không Lực Từ Đánh Cắp Kỹ Thuật.

Trong khi Hồng Quân dựa vào con số, Không quân đang trở thành một trong những lực lượng tốt nhất mà Trung Quốc có thể mua từ những đồng Mỹ Kim Walmart hoặc gián điệp của họ có thể đánh cắp.

Hãy xem hai chiếc “cá mập bay” (Flying Shark) có tên là Thẩm Dương J-11B và J-15. Chiếc thứ nhất là một phản lực cơ chiến đấu 2 máy, bản sao từ chiếc Sukhoi Su-27 của Nga. Chiếc thứ 2 là một phản lực có thể cất cánh từ hàng không mẫu hạm, phỏng theo chiếc Su-33 của Nga. Theo sự tìm hiểu của tác giả thì nhà cầm quyền Trung Quốc đầu tiên đã ký mua và được giấy phép với Nga; nhưng sau khi nhận được một trong hai máy bay nói trên, Trung Quốc đã đơn thuần đảo ngược kỹ thuật công nghệ của Nga và sau đó hủy bỏ hợp đồng. Nga rất tức giận sau khi biết là Trung Quốc đã phỏng theo kỹ thuật của hai chiếc Su-27 và Su-33 để tự chế ra J-11B và J-15 cạnh tranh lại với Nga.

Trong những máy bay đáng chú ý của Trung Quốc hiện nay, có chiếc phản lực Thunder J-17. Chiếc máy bay này được chú ý không phải vì khả năng tấn công mà nó được Trung Quốc chế tạo dựa theo sự phỏng chế một cách bí mật từ một số những kỹ thuật quân sự nhạy cảm mà họ lấy được. Đó là Trung Quốc đã dựng lên một công ty ma với Pakistan, thông qua sự môi giới của đám doanh nhân thời cơ Pháp, để qua mặt lệnh cấm bán vũ khí của Liên Hiệp Âu Châu. Và mới đây, Không quân Trung Quốc còn tiết lộ cho thế giới thấy là họ đã chế được loại máy bay không người lái (drones), mô phỏng từ loại máy bay không người lái mà Hoa Kỳ đã xử dụng rất hiệu quả ở hai chiến trường Iraq và A Phú Hãn.

Trong tất cả những máy bay của không lực Trung Quốc, loại máy bay chiến đấu tàng hình Chendu J-20 “Ó Đen” (Black Eagle) được xem là một sáng chế mang tính khiêu khích nhất. Trung Quốc đã nhân chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates để cho bay thử chiếc máy bay này vào cuối năm 2010. Chendu J-20 vượt xa máy bay tàng hình F-22 của Hoa Kỳ về khả năng không kích khá chính xác những mục tiêu trên mặt đất bao gồm cả sức chứa nhiên liệu để bay đường dài và có thể mang số lượng lớn về bom và hỏa tiễn.

Theo Tham Mưu Trưởng Của Cộng Hòa Croatia, Đô Đốc DavorDomazet-Lozo thì Trung Quốc đã không tốn nhiều chi phi nghiên cứu để chế chiếc Chendu J-20. Trung Quốc đã mô phỏng theo các kỹ thuật từ xác máy bay tàng hình F-22 của Hoa Kỳ bị bắn rơi ở Serbia vào năm 1999. Thực vậy, ngay khi nghe tin chiến máy bay tàng hình bị bắn rơi, Bắc Kinh đã gửi người đến mua tất cả mọi bộ phận mà người dân địa phương thu nhặt được mang về Trung Quốc.

Thách Thức Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ.

Theo Nhật Báo Asahi Shimbun, Nhật Bản: “Mục tiêu tương lai của quân đội Trung Quốc là bảo đảm quyền bá chủ của hải quân trong vùng biển phía Tây Thái Bình Dương bên trong đường phòng thủ thứ nhì từ quần đảo Nhật Bản tới đảo Guam và Nam Dương. Sau đó, quân đội Trung Quốc sẽ tranh giành với lực lượng hải quân Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương và trong toàn vùng Thái Bình Dương.”

Qua nội dung của bản tin nói trên, người ta thấy rõ rằng: lực lượng bộ binh Trung Quốc tượng trưng cho sức mạnh bạo lực và lực lượng không quân trang bị những chiến đấu cơ tốt nhất có thể mua hay đánh cắp, và sự tăng cường lực lượng hải quân Trung Quốc cuối cùng là mối lo lớn nhất của những nhà phân tích của Ngũ Giác Đài. Thật vậy, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc đang tiến về phía trước với dự án Manhattan (là Dự án phát triển vũ khí hạt nhân đầu tiên trong Thế Chiến Thứ 2 do Hoa Kỳ, Anh và Gia Nã Đại thực hiện từ cuối thập niên 1930, huy động gần 130 ngàn người tham gia với tổng kinh phí lên đến 2 tỷ Mỹ Kim, tương đương với 20 tỷ Mỹ kim năm 2004. Kết quả của dự án là bom Nguyên Tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945) nhằm phát triển nhanh chóng lực lượng hải quân nuớc xanh có khả năng thách thức hải quân Hoa Kỳ. Mục tiêu đầu tiên của họ là đẩy những hạm đội Hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ ra khỏi Tây Thái Bình Dương – và có lẽ cuối cùng chiếm lấy Đài Loan – và sau đó vươn sức mạnh ra toàn cầu.

Trọng tâm chính của cuộc đọ sức chiến lược vĩ đại này là một trong những vũ khí mang tính biểu tượng nhất trong lịch sử – Hàng Không Mẫu Hạm hùng mạnh. Hải quân Hoa Kỳ thích gọi những tàu này là “bốn mẫu rưỡi lãnh thổ di động và chủ quyền Hoa Kỳ” và chúng là xương sống của nền hòa bình Tây Bán Cầu trên đại dương kể từ sau Thế chiến thứ hai.

Trên thực tế, như Con Rồng biết mọi chuyện rất rõ, trực tiếp đối đầu với một Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ và hạm đội tùy tùng là một công việc cực kỳ khó khăn. Bên cạnh sự việc đã có những phi cơ có cánh 75 cố định và động cơ bay lên thẳng như trực thăng, một hàng không mẫu hạm như chiếc George Washington sẽ được canh gác chặt chẽ bởi một tuần dương hạm trang bị hỏa tiễn hướng dẫn Aegis có khả năng đẩy lùi bất cứ những cuộc tấn công diện địa. Hàng không mẫu hạm cũng sẽ được hộ tống bởi một vài khu trục hạm trang bị hỏa tiễn phòng không và có thể có ít nhất một hải đội săn tàu ngầm hoạt động thường xuyên. Trong khi đó, bên dưới biển, một hay hai tàu ngầm nguyên tử cấp Los Angeles (hay còn gọi là cấp 688) có khả năng tấn công nhanh hơn sẽ yên lặng tháp tùng hải đội đáng sợ này, và ít nhất trong quá khứ, bất kỳ sự tấn công chính diện nào của Hải quân Trung Quốc sẽ không thực hiện được trong vòng 50 dặm chung quanh một hạm đội như thế trên mặt biển.

Theo tác giả nhận định thì nhờ sức mạnh vượt trội của Hàng không mẫu hạm như vậy, Hoa Kỳ đã bảo vệ được vùng biển Nhật Bản và tránh cho Đài Loan không bị Trung Quốc xâm chiếm. Và chính sức mạnh của Hạm đội Thái Bình Dương, khiến cho các nhà chiến lược quân sự Trung Quốc ngày đêm lo sợ là một ngày nào đó, hải quân Hoa Kỳ sẽ phong tỏa toàn bộ con đường vận chuyển 80% dầu hỏa của Trung Quốc để trả đũa những toan tính bành trướng xâm lấn trên biển Đông. Do đó, những nhà chiến lược quân sự Trung Quốc đã tiến hành một chiến lược phản công gồm 2 mũi nhọn: Một là đẩy mạnh chế tạo Hàng không mẫu hạm. Hai là hoàn chỉnh hỏa tiễn tối tân để tiêu diệt Hàng không mẫu hạm của đối phương, được Ngũ Giác Đài gọi là Hỏa Tiễn BAMer viết tắt của Ballistic Anti-ship Missile (Hỏa tiễn chống tàu thủy).

Việc Trung Quốc cố hoàn chỉnh Hỏa tiễn BAMer đang làm cho Hoa Kỳ quan ngại và có thể làm đảo lộn tình thế khi mà vòng đai an toàn của các Hàng không mẫu hạm của Mỹ bị đe dọa. Hiện nay, Trung Quốc đang sử dụng sa mạc Gobi làm nơi thực tập tác xạ Hỏa tiễn BAMer, trước khi mang nó ra thực tập trên biển vì theo tác giả là không phải dễ bắn trúng những mục tiêu nhấp nhô trên sóng biển từ cả ngàn dặm.

Ngoài ra, Trung Quốc hiện cũng đang tu sửa một Hàng không mẫu hạm mua lại từ Cộng hòa Ukraine có tên là Varyag vào năm 1998, vốn do Liên Xô đóng cho hải quân Liên Xô sử dụng nhưng vì hết tiền, Varyaga chỉ hoàn tất được có khung tàu mà không có động cơ, bánh lái và phần lớn các hệ thống vận hành khác. Mặc dầu đấu giá mua được từ năm 1998 nhưng mãi đến năm 2002, chiếc tàu này mới được Trung Quốc cho vận chuyển về cảng Đại Liên. Tháng 6 năm 2005, lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định bỏ ra 5 tỷ Mỹ Kim để tu sửa, trang bị thành một hàng không mẫu hạm đầu tiên của nước này và đặt tên là Thi Lang (Shi Lang), tên của vị Thủy sư đô đốc nhà Thanh và từng tấn công sang Đài Loan vào năm 1681.

Hàng không mẫu hạm Thi Lang dài 304,5 mét, rộng 37 mét, có trọng tải 67,500 tấn và chạy bằng nhiên liệu thông thường chứ không bằng nguyên tử. Thi Lang có khả năng chứa tối đa 50 chiếc máy bay phản lực và 18 trực thăng; nhưng Bộ quốc phòng Trung Quốc cho biết là sẽ không sử dụng đủ số chiến đấu cơ này trong giai đoạn đầu, vì chỉ sử dụng tàu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu và huấn luyện. Theo tin tức, hải quân Trung Quốc đã nghiên cứu rất kỹ các bước hoàn chỉnh việc tu sửa chiếc Thi Lang, để lấy kinh nghiệm cho việc tự đóng Hàng không mẫu hạm nội địa đầu tiên tại cảng Thượng Hải, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Mục tiêu của Bắc Kinh là sẽ đóng 5 Hàng không mẫu hạm cho đến năm 2020.

Chế Tàu Ngầm Vượt Ra Biển Xanh.

Không có hạm đội Hàng không mẫu hạm nào hoạt động hiệu quả nếu không có lực lượng tàu ngầm hùng mạnh chạy thật êm và thật sâu. Trung Quốc đã và đang âm thầm xây dựng một lực lượng tàu ngầm, chẳng bao lâu sẽ lớn nhất thế giới. Thực vậy, tác giả cho biết là hiện Trung Quốc đang sở hữu thế hệ mới nhất của những tàu ngầm chạy bằng tổng hợp điện – dầu cặn (Diesel – Electric) rất nhanh và yên lặng nên nó có thể bám sát và theo dõi những tàu chiến của Hoa Kỳ mà rất ít khi bị phát hiện.

Ngoài ra, những tàu ngầm mới hơn của Trung Quốc thuộc loại yuan Class, nó còn chạy im hơn và có thể hoạt động dưới biển trong một thời gian rất dài nhờ vào một hệ thống “động cơ không cần không khí”. Ngoài ra để bảo đảm khả năng đưa được lực lượng hải quân chiến đấu tới những vùng biển xanh xa xôi như tận bờ biển California chẳng hạn, Trung Quốc đã chế một số tàu ngầm mang hỏa tiễn loại 094 Jin Class, bắn xa đến tận thành phố Savannah hay thành phố Missouri vùng Đông Nam Hoa Kỳ.

Hồi tháng 11 năm 2010, Thiếu tướng Không Quân về hưu, Thomas McInerney đã khẳng định rằng hải quân Trung Quốc đã thực sự tiến hành một cuộc phóng thử hỏa tiễn loại 094 Jin Class ngoài khơi Los Angeless – ngay hôm trước khi khai mạc Hội nghị Thượng Đỉnh G20. Trong khi đó Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ lại nhanh chóng phủ nhận sự kiện này. Mặc dù chính quyền ông Obama phủ nhận, nhưng đa số các chuyên gia quân sự của Hoa Kỳ đều tin rằng việc Trung Quốc phóng thử nghiệm hỏa tiễn là điều có thể xảy ra.

Hãy Coi Lại Sân Sau Sản Xuất Của Mỹ.

Sau khi phân tích về tiềm lực lục quân, không quân và hải quân của Trung Quốc, tác giả cho rằng tuy sức mạnh quân sự của Trung Quốc chưa có thể đối đầu với Hoa Kỳ vào lúc này, nhưng chính sự cạn kiện của hạ tầng sản xuất Hoa Kỳ vì từ từ chuyển sang Trung Quốc, sẽ làm cho Hoa Kỳ kiệt quệ và không còn khả năng đề kháng.

Tác giả đã dẫn giải rằng Hoa Kỳ đã đánh bại Hitler và Đức Quốc Xã phần lớn không do lực lượng binh sĩ quả cảm mà chính nhờ sức mạnh kỹ thuật trấn áp. Hồi đó, trong hầu hết các loại, Đức Quốc Xã đều có vũ khí ưu việt về mặt kỹ thuật như xe tăng Pazer, tàu ngầm U boats và chiến hạm Bismarck là chiến hạm vĩ đại nhất chưa từng thấy lúc đó. Ngoài ra về hỏa tiễn, Đức vô địch những loại hỏa tiễn tầm xa duy nhất trên thế giới thời đó. Những hỏa tiễn hướng dẫn V1, hỏa tiễn đạn đạo V2 và phi cơ Me -262 (phi cơ phản lực đầu tiên thế giới) mà phe đồng minh không thể sánh kịp.

Ngược lại, cái mà Hoa Kỳ có vào lúc đó chính là hạ tầng sản xuất lớn nhất thế giới. Một khi hạ tầng sản xuất này hoàn toàn chuyển sang phục vụ nhu cầu chiến tranh sau trận Trân Châu Cảng, những nhà máy khổng lồ và hiệu quả ở Detroit, những cơ xưởng đóng tàu ở Maine, những nhà máy hóa học ở Ohio và những nhà máy thép ở Pennsylvania đã sản xuất hàng loạt với số lượng tràn ngập các loại xe tăng, máy bay, súng và bom. Kết quả là lực lượng quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ đã đánh bại hai bộ máy chiến tranh lớn nhất thế giới thời đó là Nhật Bản và Đức Quốc Xã.

Ngày nay, Hoa Kỳ đã không còn ở vào cái thế như trước đây. Những nhà máy xe hơi lớn nhất không còn ở Detroit mà ở những thành phố như Thành Đô, Cát Lâm, Nam Kinh, Vũ Hồ. Những xưởng đóng tàu nhộn nhịp nhất hiện đang ở Bó Hải, Đại Liên, Phúc Kiến, Dương Gan và nhiều nhà máy khác ở Trng Khánh, Hồ Bắc Thượng Hải có sức sản xuất gấp 10 lần hơn Hoa Kỳ. Theo tác giả thì Hoa Kỳ cần quan tâm một điều nữa là khi đụng trận thật sự kẻ nào có nhiều vũ khí – tuy không tốt bằng – nhưng sẽ là kẻ chiến thắng. Loại phi cơ chiến đấu J-20 của Trung Quốc không nhất thiết phải là loại phi cơ tốt nhất thế giới; nhưng nếu nó có thể xuất trận với 1,000 chiếc địch với 187 chiếc F-22 của Hoa Kỳ, thì không lực Trung Quốc sẽ chiếm ưu thế.

Kết luận ở chương này, tác giả cảnh báo rằng khi Hoa Kỳ đã chuyển giao nhiều công nghệ và hạ tầng sản xuất cho Trung Quốc thì có ngày Trung Quốc sẽ không những qua mặt Hoa Kỳ mà còn quay trở lại kiềm chế nước Mỹ. Quan sát những gì Trung Quốc đang làm ngày hôm nay, tất chúng ta phải thấy rõ Bắc Kinh đang: 1/Tập trung phát triển hay đánh cắp những hệ thống vũ khí tối tân để tăng cường khả năng kỹ thuật và sau đó sẽ 2/Chế tạo đủ số lượng để khống chế ưu thế kỹ thuật của Hoa Kỳ.

Theo nhận xét của tác giả thì Trung Quốc đã làm xong điều thứ nhất và hiện đang bước vào điều thứ hai.

(Còn tiếp)

Lý Thái Hùng
Ngày 29/9/2011

Đọc các phần trước:

Phần 1: http://www.viettan.org/spip.php?article11450

Phần 2: http://www.viettan.org/spip.php?article11506

Phần 3: http://www.viettan.org/spip.php?article11570&artsuite=0

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.

Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo công bố báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ 4 (UPR), ngày 15/4/2024. Ảnh chụp Báo Tin Tức

Việt Nam bác bỏ các báo cáo ‘thiếu khách quan’ về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc

Trong báo cáo đề ngày 27/2/2024 được công bố trên trang web của LHQ, nhóm chuyên trách Việt Nam của LHQ cho hay ít nhất 150 nhà báo độc lập, những người bảo vệ nhân quyền, và các nhà hoạt động dân chủ, đất đai và tôn giáo còn bị giam cầm chỉ vì thực hiện các quyền cơ bản của họ một cách ôn hòa trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường, quyền của người thiểu số và phát triển dân chủ.