Hồ Xuân Sơn lại lọt ổ phục kích của Bắc Kinh?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
JPEG - 35.6 kb
Hồ Xuân Sơn, trái, gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bình Quốc vào tuần trước.

Sau những xung đột căng thẳng trên biển Đông, Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng ngoại giao CSVN đã thay mặt đảng và nước CSVN sang Bắc Kinh họp với Đới Bình Quốc, Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc hôm 25 tháng 6 để gọi là “giải quyết những bất đồng trên biển” và “tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước”. Nếu vấn đề chỉ có thế, cuộc gặp gỡ giữa Hồ Xuân Sơn và Đới Bình Quốc đã không trở thành vấn đề nghiêm trọng vì đây là những trao đổi ngoại giao bình thường.

Điều mà dư luận thắc mắc là trong lúc Hồ Xuân Sơn còn đang “tham quan” Trung Quốc, ngày 28 tháng 6, Hồng Lỗi, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Trung Quốc tiết lộ rằng qua cuộc gặp giữa Hồ Xuân Sơn và Đới Bình Quốc, hai phía Hà Nội và Bắc Kinh đã “thống nhất giải quyết các tranh chấp thông qua hiệp thương hữu nghị và tránh có các hành động dẫn tới leo thang hay phức tạp hóa tình hình”. Hồng Lỗi còn tuyên bố rằng: “Bắc Kinh hy vọng là phía CSVN sẽ thực hiện những đồng thuận chung này”.

Câu hỏi đặt ra là “đồng thuận chung” gì?

Cho đến nay phía CSVN đã không có bất cứ lên tiếng nào để giải thích về điều mà Trung Quốc gọi là đồng thuận chung. Ngay cả việc 18 trí thức Việt Nam như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh… viết thư yêu cầu Hồ Xuân Sơn giải thích về nội dung cuộc họp 25 tháng 6 và những điều mà phía CSVN thỏa thuận với Bắc Kinh; nhưng Hồ Xuân Sơn và Bộ ngoại giao CSVN không trả lời và cũng không gặp mặt mà chỉ đưa một cán bộ phụ trách về biên giới ra giải thích nên cuộc gặp nói trên bất thành. Điều này càng khiến cho dư luận thêm thắc mắc là Hồ Xuân Sơn “có thể” đã chấp nhận đề nghị thảo luận song phương với Trung Quốc về những tranh chấp biển Đông, thay vì chọn giải pháp quốc tế hóa vấn đề biển Đông như Hà Nội đã đồng thuận với khối ASEAN. Nếu Hồ Xuân Sơn và CSVN không chấp thuận nguyên tắc thảo luận song phương, Bắc Kinh không có lý do gì đòi hỏi CSVN phải thực hiện đồng thuận chung?

Sự kiện nói trên gợi cho dư luận nhớ lại một thảm kịch “đồng thuận” khác mà phía CSVN đã “dở khóc, dở cười” qua Hội nghị Thành Đô vào năm 1990 giữa lãnh đạo Hà Nội và Bắc Kinh, nhằm nối lại quan hệ giữa hai phía sau những xung đột đẫm máu từ năm 1979. Cuộc họp này do phía Trung Quốc gợi ý sau khi đánh đúng sự ao ước của CSVN muốn nối lại quan hệ với Bắc Kinh khi đối diện cảnh tan rã của khối Cộng sản Đông Âu và Liên Xô. Hội nghị diễn ra không ở Thủ đô Bắc Kinh mà tại Thành Đô vì Trung Quốc nói là “để giữ bí mật”. Phía CSVN vào lúc đó có Phạm Văn Đồng (Cố vấn), Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư) và Đỗ Mười (Thủ tướng). Phía Trung quốc có Giang Trạch Dân (Tổng bí thư), Lý Bằng (Thủ tướng); không có Đặng Tiểu Bình như Bắc Kinh đã hứa.

Qua lời kể của ông Trần Quang Cơ, thứ trưởng ngoại giao vào lúc đó thì sau 2 ngày hội nghị (từ 3 đến 4 tháng 9 năm 1990), kết quả trao đổi ghi thành biên bản 8 điểm. Ông Cơ cho rằng trong 8 điểm đã có 7 điểm nói về giải pháp Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về quan hệ Việt-Trung mà nội dung không có gì mới. Trong 7 điểm nói về Campuchia, có 5 điểm hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của Bắc Kinh, không có điểm nào đáp ứng yêu cầu phía Hà Nội. Ông Trần Quang Cơ còn cho biết là phía Trung Quốc đã “gài” để Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh rơi vào bẫy sập của Bắc Kinh về việc thành lập Hội đồng lãnh đạo tối cao Campuchia (SNC) vào lúc đó với phương thức 6+2+2+2+1 (tức là 6 người bên Hunsen, 2 người bên Pol Pot, 2 người bên Hoàng gia, 2 người bên Son San và 1 là Shianouk) khác với phương thức có lợi cho phe Hunsen và Cộng sản Việt Nam là 6+2+2+2. Đáng lý ra, theo ông Cơ thì việc thỏa thuận nói trên sẽ phải giữ bí mật để hai phía tìm cách thuyết phục các phe Campuchia, nhất là phe Hunsen đồng ý trước khi tung ra ngoài; nhưng ngay khi chấm dứt Hội nghị, Bắc Kinh đã thông báo toàn bộ nội dung “đồng thuận” nói trên cho các quốc gia, kể cả cho phe Hunsen. Sự kiện này đã đặt CSVN ở vào thế: 1/ Vi phạm nguyên tắc không can thiệp nội bộ Hunsen như đã hứa; 2/ Đi đêm với Bắc Kinh về giải pháp 6+2+2+2++1 thay vì giải pháp 6+2+2+2 gây bất lợi cho phe Hunsen. Ngoài ra, ông Cơ cho biết thêm là phía CSVN đã đưa ra giải pháp đỏ (sự hợp tác giữa lực lượng cộng sản Hunsen và cộng sản Pol pot để kiểm soát xứ Chùa Tháp) nhưng Trung Quốc không đồng ý, cho rằng không cần thiết.

Nhìn lại Hội nghị Thành Đô năm 1990, ông Trần Quang Cơ cho rằng lãnh đạo CSVN đã bị Bắc Kinh lừa là vì chính Hà Nội đã tự lừa mình. Hà Nội đã tự mình tạo ra ảo tưởng rằng Bắc Kinh sẽ giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa cho CSVN và phe xã hội chủ nghĩa thế giới để chống lại hiểm họa diễn biến hòa bình của Mỹ. Chính ảo tưởng sai lầm này mà Hà Nội đã bị Bắc Kinh lợi dụng. Mặc dù ông Trần Quang Cơ đã cảnh cáo như vậy, nhưng suốt từ năm 1990 cho đến nay, rõ ràng là CSVN vẫn tiếp tục sống trong ảo tưởng coi Bắc Kinh là chỗ dựa vững chắc cho CSVN trên mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại.

Trong vấn đề biển Đông, Trung Quốc biết là họ không có bất cứ lý cớ vững chắc nào để thuyết phục thế giới về cái gọi là đường lưỡi bò 9 khúc, chiếm 80% diện tích biển Đông mà họ đã đưa ra từ nhiều thập niên qua. Trung Quốc cũng biết là một mình họ không thể nào thắng trong bàn hội nghị đa phương và nếu để diễn ra thì sẽ bất lợi hoàn toàn cho Trung Quốc. Chính vì thế mà Trung Quốc chỉ còn dựa vào hai cách làm như ta đã thấy trong thời gian qua:

Thứ nhất là dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng và tìm cách “dụ dỗ” CSVN để đồng thuận với Trung Quốc là gác lại vấn đề tranh chấp qua những thỏa thuận song phương hữu nghị giữa hai nước xã hội chủ nghĩa. Khi Trung Quốc dụ được CSVN thì coi như Bắc Kinh đã thành công lớn trong việc không cho Hoa Kỳ tiến hành vấn đề quốc tế hóa biển Đông và không cho CSVN ngã về phía Hoa Kỳ.

Thứ hai là tung các đợt uy hiếp ngư dân và tàu bè các nước, đồng thời triệt để áp dụng chủ trương không cho khai thác thuỷ sản trên biển Đông từ ngày 15 tháng 5 đến cuối tháng 8 hàng năm để vừa xác định uy quyền trên biển Đông, vừa tạo ra tình trạng căng thẳng “giả” giữa Bắc Kinh với khối ASEAN, hầu qua đó làm trì hoãn những đàm phám mang tính đa phương. Bắc Kinh hiện đang rất mạnh miệng bài bác mọi đề nghị về đàm phán đa phương.

Mặc dù nội dung cuộc họp ngày 25 tháng 6 năm 2011 chưa được tiết lộ hay sẽ không bao giờ tiết lộ vì sợ bị dư luận Việt Nam kết án là bán nước, nhưng qua cách nói úp úp mở mở của Bắc Kinh cho chúng ta thấy là Hồ Xuân Sơn và lãnh đạo CSVN đã bị rơi vào ổ phục kích thứ nhất của Bắc Kinh như đã phân tích ở trên. Sở dĩ như vậy là cũng do ảo tưởng của CSVN – như ông Trần Quang Cơ đã từng cảnh báo từ năm 1990 – coi Bắc Kinh là chỗ dựa và vì thế không thể làm phật lòng đàn anh.

Tóm lại, việc 18 nhà trí thức đòi gặp Hồ Xuân Sơn để biết rõ nội dung cuộc họp ngày 25 tháng 6 có lẽ không còn cần thiết. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải nhìn rõ sự bế tắc của đảng Cộng Sản Việt Nam đối với “người anh và là người đồng chí Trung Quốc”, trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Đây là lúc đừng chờ đợi “thiện chí” yêu nước của 14 ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN mà những người Việt yêu nước sẽ phải hành động mạnh mẽ hơn, với sự tụ họp đông đảo và góp sức của mỗi người, để nói với thế giới rằng: Dân Tộc Việt Nam cương quyết không hèn.

Trung Điền
Ngày 15/7/2011.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ông Tô Lâm (trái) và ông Vương Đình Huệ. Ảnh: Thanh Niên

Về cuộc tranh giành quyền lực ở Ba Đình

Tin đồn mới nhất cho biết ông Huệ vẫn kiên cường chống trả, chưa chịu buông giáo đầu hàng dù tay chân thân tín đã bị ông Lâm tóm gọn. Có thể ông Huệ còn trông mong vào sự cứu viện của hoàng đế Tập Cận Bình bên Tàu. Nhưng trận đấu chỉ giằng co thêm một vài ngày nữa thôi, vì theo quy định của đảng CSVN, ông Huệ khó mà tránh được tội liên đới “trách nhiệm của người đứng đầu” khi các đàn em sa vào vòng lao lý, chưa kể ông Lâm còn nhiều độc chiêu sẽ tiếp tục tung ra để buộc ông Huệ phải cởi giáp quy hàng.

Lính hải quân Campuchia tại căn cứ hải quân Ream ở Preah Sihanouk trong một chuyến thăm do chính phủ tổ chức hôm 26/7/2019. Ảnh minh họa: AFP

Quân cảng Ream và Kênh đào Funan của Campuchia: nỗi lo lớn đối với Việt Nam

Hôm 18/4/2024, Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố thông tin về hai tàu hải quân Trung Quốc đã đậu ở căn cứ hải quân Ream của Campuchia trong hơn bốn tháng…

Từ đó, AMTI đặt câu hỏi liệu sự hiện diện thường trực của hải quân Trung Quốc tại quân cảng Ream đã được thiết lập trên thực tế hay mới chỉ là “lời đồn.”

Theo các chuyên gia, sự kết hợp giữa quân cảng Ream và kênh đào Phù Nam [Funan Techo] có thể tạo mối đe dọa an ninh truyền thống (quân sự) và an ninh phi truyền thống (môi trường, kinh tế, chính trị) đối với Việt Nam.

HRW đưa ra lời kêu gọi trước dịp diễn ra tiến trình Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam ngày 7/5/2024. Nguồn: HRW

HRW kêu gọi LHQ gây áp lực để Việt Nam cải thiện nhân quyền

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền hôm 22/4 hối thúc các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc nên tận dụng đợt rà soát hồ sơ nhân quyền sắp tới của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền LHQ để gây áp lực buộc Hà Nội chấm dứt đàn áp những người bất đồng chính kiến và các quyền cơ bản.