Đơn Khiếu Nại Của Bà Vũ Kim Khánh

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

ĐƠN KHIẾU NẠI VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG VÀ ĐỀ NGHỊ HOÃN PHIÊN XỬ

Kính gửi:

Tôi, Vũ Minh Khánh, là vợ của luật sư Nguyễn Văn Đài, làm đơn này để xin Ông ra lệnh hoãn phiên xử sơ thẩm chồng tôi, dự định sẽ diễn ra ở Tòa án Nhân dân Hà Nội vào ngày 11/5/2007. Lý do: Nếu vẫn tiến hành việc xét xử theo dự định thì quyền lợi hợp pháp của chồng tôi sẽ không thể được bảo đảm đúng mức vì trong thời gian qua các cơ quan thẩm quyền đã có những sai phạm trầm trọng trong thủ tục tố tụng hình sự. Sau đây tôi xin liệt kê một số những sai phạm đã làm thiệt hại cho quyền lợi của chồng tôi.

1) Thiệt hại vì việc tạm giam không đúng thủ tục và không có người bào chữa ngay từ lúc bị khởi tố.

Chồng tôi, Luật sư Nguyễn Văn Đài, bị bắt vào ngày 06/3/2007 và khởi tố vì tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo điều 88 Bộ luật hình sự Việt Nam. Hiện chồng tôi đang bị tạm giam tại Trại giam số 1, Sở công an Hà nội. Cho đến nay, mặc dù tôi đã liên tục đề nghị nhưng tôi không nhận được lệnh tạm giam, lệnh khám nhà, lệnh khám văn phòng, biên bản thu giữ tài liệu và đồ vật hay bất cứ giấy tờ gì liên quan đến vụ bắt giữ chồng tôi.
Việc này vi phạm điều 80 khoản 2 BLTTHS/VN về việc lập biên bản về việc bắt và điều 85 BLTTHS/VN về việc thông báo cho gia đình người bị bắt.

Theo Điều 58 của Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam (BLTTHS/VN) thì chồng tôi có quyền có người bào chữa từ khi bị khởi tố. Tôi đã nhiều lần đề nghị điều này. Cho đến ngày 04/4/2007 công an điều tra đã luôn luôn trả lời miệng cho tôi rằng chồng tôi không có quyền được có luật sư trong giai đoạn điều tra mà chỉ được có luật sư khi hồ sơ được chuyển lên viện kiểm sát.
Do đó vào ngày 05/4/2007, Luật sư Trần Lâm đã chính thức nộp đơn cho Sở Công an Hà Nội để xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Nhưng đến nay Sở Công an Hà Nội chỉ từ chối miệng chứ không có văn bản trả lời cho tôi và luật sư Trần Lâm.
Những việc làm nêu trên rõ ràng vi phạm điều 58 khoản 1 về quyền có người bào chữa và điều 56 khoản 4 BLTTHS/VN về việc cơ quan thẩm quyền phải trả lời trong thời hạn 03 ngày về đề nghị của người bào chữa.

2) Thiệt hại do không nhận được Bản Kết luận Điều tra.

Sau nhiều lần tôi chủ động gọi điện thoại hoặc đến Sở Công an Hà Nội nhưng không gặp được điều tra viên, cuối cùng đến ngày 20/4/2007 tôi gặp được điều tra viên và được cho biết rằng công an đã kết thúc việc điều tra và đã chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát rồi. Sau này kiểm sát viên phụ trách hồ sơ chồng tôi cho biết rằng ông đã nhận được hồ sơ do sở công an Hà nội chuyển sang vào ngày 19/4/2007.
Cho đến nay luật sư Trần Lâm không được Sở Công an gửi Bản Kết luận Điều tra theo như qui định của điều 162 khoản 4 BLTTHS/VN.

3) Thiệt hại do không có luật sư từ khi hồ sơ được chuyển sang Viện kiểm sát và do không nhận được bản cáo trạng.

Trong thời gian từ lúc nhận được hồ sơ do sở công an chuyển sang vào ngày 19/4/2007 đến lúc hoàn tất và chuyển hồ sơ đến toà án vào ngày 24/4/2007, Viện kiểm sát Hà Nội đã không mời luật sư Trần Lâm theo thủ tục luật định. Nếu cho rằng trường hợp của chồng tôi cần giữ bí mật điều tra thì theo điều 58 khoản 1 Viện trưởng Viện kiểm sát phải ra quyết định để người bào chữa của chồng tôi được tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Điều này đã không xảy ra.
Như vậy chồng tôi bị vi phạm quyền lợi mời luật sư theo điều 58 khoản 1 câu 3 BLTTHS/VN.

Vào ngày 23/4/2007 tôi và luật sư Trần Lâm đến Viện kiểm sát Nhân dân Hà Nội trong cả buổi sáng lẫn buổi chiều nhưng cũng không gặp được kiểm sát viên phụ trách hồ sơ chồng tôi là ông Đinh Quốc Thái. Vào sáng ngày 24/4/2007 tôi và luật sư Trần Lâm trở lại Viện Kiểm sát Nhân dân Hà nội và được trực ban cho biết ông Thái bận đi thi đấu giải tennis và nghỉ phép, và đến ngày 27/4/2007 mới đi làm trở lại. Tôi đề nghị cho tôi gặp bộ phận đặt lịch hẹn để gặp ông Thái vào ngày 27/4/2007 nhưng không được chấp nhận. Tôi đề nghị cho chúng tôi gặp viện trưởng hoặc viện phó hay trưởng phòng của ông Thái nhưng cũng bị từ chối với lý do là họ đều đi vắng. Những lý do này không có tính thuyết phục vì khi đó quyền lợi của chồng tôi đã bị thiệt hại nhiều mà chúng tôi không thể gặp được người có trách nhiệm hoặc có thẩm quyền giải quyết việc của chúng tôi. Do một sự tình cờ mà vào cuối buổi chiều ngày 24/4/2007 tôi gặp ông Thái và ông này thông báo đã chuyển hồ sơ chồng tôi lên toà án vào cùng ngày và đề nghị tôi sang liên hệ với toà án. Theo nhiều tờ báo ở trong nước thì vào hôm trước đó, ngày 23/4/2007, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra cáo trạng truy tố chồng tôi về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo điều 88, Khoản 1, điểm a, c của Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Luật sư Trần Lâm đã không được thông báo và không được đọc cáo trạng và hồ sơ vụ án trong vòng 03 ngày kể từ ngày Viện Kiểm sát ra quyết định truy tố chồng tôi theo như qui định của điều 166 khoản 1 BLTTHS/VN.

4) Thiệt hại do thời gian chuẩn bị bào chữa quá ngắn.

Luật sư Trần Lâm đã đến gặp người thụ lý hồ sơ của chồng tôi là thẩm phán Nguyễn Hữu Chính vào ngày 25/4/2007. Ông Chính đề nghị luật sư Trần Lâm làm lại đơn xin cấp giấy chứng nhận làm người bào chữa vì công an đã không chuyển cho toà đơn xin của luật sư viết ngày 05/4/2007. Luật sư Trần Lâm được thông báo rằng phiên xử sẽ diễn ra ngày 11/5/2007. Trong khi đó, giấy chứng nhận người bào chữa sẽ được cấp vào ngày 02/5/2007 và thời gian để đọc hồ sơ cũng bị giới hạn trong 07 ngày – từ ngày 02 đến ngày 10/5/2007.
Luật sư Trần Lâm đã không được tòa cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong thời hạn 03 ngày theo đúng qui định của điều 56 khoản 4 BLTTHS/VN. Ngoài ra do gặp nhiều trở ngại trong việc xin cấp giấy chứng nhận làm người bào chữa cho nên thời hạn 10 ngày dành cho việc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho người bào chữa sẽ không thể thực hiện được như của điều 182 khoản 1 BLTTHS/VN đã qui định.

Gia đình chúng tôi chính thức nhận được thông báo về ngày giờ xét xử vào ngày 25/4/2007 trong khi hãng thông tấn AFP của Pháp đã loan báo ngày giờ này vào hôm 19/4/2007, ngay khi mà sở công an vừa kết thúc điều tra, viện kiểm sát chưa ra cáo trạng và chưa chuyển hồ sơ lên toà án. Việc ấn định sẵn ngày giờ xét xử như thế gây nhiều khó khăn cho trường hợp của chồng tôi. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, sự trì hoãn để chồng tôi không có luật sư trong một thời gian dài là một hành động cố ý và liên tiếp vi phạm luật pháp của các cơ quan công an, kiểm sát và toà án Hà Nội. Trong thời gian ngắn ngủi còn lại cho đến ngày dự định xử – nếu không gặp trở ngại nào khác nữa, luật sư Trần Lâm sẽ chỉ được còn tổng cộng không đầy 07 ngày làm việc để vào thăm chồng tôi và để nghiên cứu hồ sơ trong vụ án của chồng tôi. Tôi xin được lưu ý rằng luật sư Trần Lâm cũng đại diện cho luật sư Lê Thị Công Nhân (người cũng bị đem ra xử trong cùng vụ và cùng ngày với chồng tôi) và như thế ông phải phụ trách 02 hồ sơ trong 07 ngày làm việc. Thời gian này sẽ không đủ cho luật sư thực hiện đầy đủ quyền bào chữa như qui định của điều 58 BLTTHS/VN và từ đó không thể bảo đảm chất lượng của bài bào chữa của mình.

Việc biện hộ cho chồng tôi sẽ không đơn giản nên đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng để tranh tụng trước toà. Tính chất phức tạp của trường hợp chồng tôi đã thể hiện trong gần 2 tháng qua kể từ ngày chồng tôi bị bắt. Cho đến hôm nay trên các đài truyền hình, đài truyền thanh và các báo chí của Đảng và Nhà nước đã liên tiếp cho đăng mấy chục bài để xuyên tạc sự kiện, bôi nhọ, nhục mạ, hạ thấp nhân phẩm và thanh danh cá nhân chồng tôi với mục đích chuẩn bị dư luận để kết án chồng tôi. Các đài truyền hình VTV1 và VTC đã chiếu hình ảnh chồng tôi mặc quần áo tù nhân vào ngày 27 và 29/4/2007 mặc dù chồng tôi chưa hề bị một toà án nào kết án. Những việc làm này vi phạm những nguyên tắc cơ bản được ghi trong điều 5 (quyền bình đẳng), điều 6 (quyền bất khả xâm phạm thân thể), điều 7 (quyền được bảo hộ sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản) và nhất là điều 9 (quyền suy đoán vô tội) của BLTTHS/VN. Những dấu hiệu xảy ra trong thời gian vừa qua cho thấy quyền bình đẳng trước toà án theo điều 19 BLTTHS/VN khó có thể được bảo đảm khi các phương tiện và cơ hội của phía bị cáo bị giới hạn quá nhiều so với bên công tố. Tôi xin miễn nêu lên ở đây những tiêu chuẩn xét xử công bằng quốc tế.

Để bảo đảm cho chồng tôi được hưởng một phiên xử công bằng theo những tiêu chuẩn pháp lý hiện hành, tôi làm đơn này để khiếu nại theo điều 31 BLTTHS/VN và để đề nghị hoãn phiên xử chồng tôi ba (03) tuần để bảo đảm quyền bào chữa của chồng tôi.

Tôi xin chân thành cám ơn sự quan tâm và giúp đỡ của Ông.

Hà Nội, ngày 04 tháng 5 năm 2007

Vũ Minh Khánh

Đơn trên đây đã được gửi đến các nhà lãnh đạo Việt Nam có tên sau đây:

- Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
- Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ ngoai giao Phạm Gia Khiêm.
- Tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng.
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Uỷ ban Pháp luật Quốc hội.
- Bộ trưởng bộ tư pháp.
- Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Phạm Thế Duyệt.
- Bộ trưởng bộ công an Lê Hồng Anh.
- Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao.
- Giám đốc Sở Công an Hà Nội.
- Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao.
- Chánh án Tòa án Nhân dân Hà Nội.
- Phó Chánh án Toà án Nhân dân Hà Nội Nguyễn Hữu Chính.
- Viện trưởng Viện Kiểm sát Hà Nội.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước báo chí sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. Ảnh: AP - Luong Thai Linh

Báo chí Việt Nam chính thức thông báo tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ trần

Còn ông Michael Tatarski, chủ trang Web thời sự Vietnam Weekly bằng tiếng Anh, đăng độc lập ở Sài Gòn, cho rằng theo quan sát của ông về cuộc chuyển giao quyền lực sau khi ông Trọng tạ thế, câu hỏi lớn hơn cả là cách Việt Nam đối xử với xã hội dân sự, việc kiểm soát Internet, các thảo luận mở, và việc kiểm duyệt văn hóa.