Nhân quyền trên mảnh đất Tây Nguyên

Trần Minh Nhật

Ảnh minh họa

Giải thưởng Nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2024 có nhiều điều đặc biệt với tôi. Thật vui khi, buổi lễ trao giải được tổ chức tại Toronto, nơi tôi định cư. Năm nay, khôi nguyên giải thưởng là Thầy Truyền đạo Y Krec Bya, là một người Thượng ở Tây Nguyên, nơi tôi lớn lên và dành nhiều tình cảm đặc biệt. Trùng hợp thay, anh Lượng và tôi gặp nhau trực tiếp lần đầu ở Tây Nguyên, và sau cuộc gặp đó anh ấy đã bị công an hành hung đổ máu.

Tôi được may mắn lớn lên ở Lâm Đồng và khi đã trưởng thành tự mình giong ruổi trên các cung đường phủ vàng hoa dã quỳ hay xuyên hun hút giữa rừng thông gió hú thuộc các tỉnh thuộc Cao Nguyên trung phần. Tôi yêu núi rừng, sông hồ, buôn làng và con người nơi đây. Với vốn ngôn ngữ đủ để giao tiếp, tôi phần nào hiểu được văn hoá, tập tục và bản sắc của người Thượng.

Nhân ngày kỷ niệm bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, tôi xin được phác hoạ sơ lược tình trạng nhân quyền trên mảnh đất Tây Nguyên, không chỉ dưới quan điểm cá nhân nhưng như một nét khái quát đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Một chủ đề rộng, nhưng tôi xin được phép giới hạn ở một số vi phạm nhân quyền chính yếu, là thực tế đi kèm cùng những trích dẫn từ các báo cáo quốc tế.

Một vài nét khái quát

Tây Nguyên đại ngàn gắn liền với núi rừng hùng vĩ là mảnh đất nơi sinh sống của các sắc dân bản địa, được gọi chung là Người Thượng, bao gồm Ê-đê, Ba Na, Gia Rai, K’Ho, Mơ Nông, Bana, Mạ, Stiêng… Từ thời Pháp Thuộc, tên gọi Montagnard trong Pháp Ngữ được dùng để nói về “người miền núi” và cũng được hiểu theo nghĩa Người Thượng hiện nay. Bên cạnh đó, một cách gọi khác cũng phổ biến, nhưng ít nhiều bị nhà cầm quyền Việt Nam cho là có liên quan tới yếu tố chính trị, là Đềga cũng để nói về các sắc dân thiểu số ở đây.

Từ thời các vương triều phong kiến, tiếp đến là chính thể Việt Nam Cộng Hoà và sau này là nhà nước CSVN đều coi Tây Nguyên như một khu vực chiến lược về quân sự, chính trị và kinh tế của Việt Nam. Những biến động ở vùng đất này có tính chất nhạy cảm đặc biệt đối với sự ổn định của toàn bộ quốc gia.

Từ sau năm 1975 đã có nhiều xung đột và đối đầu lớn ở địa bàn chiến lược này. Nhưng vì tính cấp thiết của đề tài và cũng để giới hạn phạm vi của bài viết, chỉ xin phép được nêu một số nét chính từ sau năm 2000, thời điểm bước vào thiên niên kỷ thứ ba, và với sự bùng nổ của Internet, các hồ sơ đàn áp nhân quyền ở khu vực Tây Nguyên dần được thế giới biết tới.

Để làm rõ thực trạng nhân quyền ở Tây Nguyên, là một mục tiêu lớn đáng mong ước nhưng vượt quá giới hạn của bài viết này. Tôi xin được chia sẻ về nhân quyền không chỉ thuần tuý dưới nhãn quan chính trị mà còn là quyền sống, quyền đất đai, những xâm phạm văn hoá bản địa và quyền được phát triển bình đẳng, đặc biệt những đàn áp nhắm vào cộng đồng tôn giáo nơi mảnh đất núi rừng Tây Nguyên.

Thực trạng đàn áp nhân quyền Tây Nguyên

1. Xung đột đất đai

Chính sách kinh tế mới đặc biệt từ sau “thời bao cấp” đã thúc đẩy hàng triệu người nhắm đến vùng Tây Nguyên để lập nghiệp. Làn sóng phá rừng làm rẫy biến những cánh rừng thành đồi trọc diễn ra khắp các tỉnh Tây Nguyên. Không dừng lại ở đó, người dân bản địa mất đất canh tác do chính sách thu hồi đất, chuyển đổi đất nông nghiệp sang trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su. Điều này gây ra những cuộc tranh chấp căng thẳng giữa người dân và các doanh nghiệp hoặc nhà cầm quyền địa phương.

Các số liệu về tình hình hình khiếu kiện, khiếu nại phát sinh do tranh chấp đất đai ở Tây Nguyên thường được coi là nhạy cảm và công chúng khó tiếp cận. Theo một báo cáo hiếm hoi của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, từ năm 2011 đến năm 2016, toàn vùng đã phát sinh 45.138 quyết định hành chính bị khiếu nại trên tổng số 249.322 quyết định liên quan đến tranh chấp đất đai [1].

Những xung đột đất đai là diện phổ biến nhất vì quyền tư hữu không được hiến pháp công nhận. Bên cạnh đó, với đặc thù ở Tây Nguyên tình trạng cửa quyền và những hành xử không dựa trên luật pháp lại xảy ra thường xuyên đối với các cộng đồng thiểu số. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết và yếu thế của đồng bào thiểu số, ngay từ thời kỳ đầu của cái gọi là công cuộc đổi mới, các di dân từ “miền xuôi” đã chiếm đoạt, lừa gạt hay mua với giá rẻ mạt sinh kế của người bản địa. Các cấp chính quyền địa phương, vốn dành cho người Kinh, lại thường thiên vị cho các doanh nghiệp, cá nhân giàu có khi xảy ra xung đột lợi ích với người Thượng.

Điển hình tại tỉnh Đắk Lắk, số liệu cho thấy từ năm 2011 đến năm 2016, các cơ quan chức năng đã tiếp nhận 3.221 vụ khiếu nại về đất đai và 7.893 vụ kiến nghị, phản ánh liên quan đến quản lý đất đai và chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Đến năm 2023, báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn ghi nhận “Tình trạng tước đoạt đất đai của người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên diễn ra phổ biến.” Rẫy nương, nhà ở của nhiều buôn làng bị xâm lấn, cưỡng chiếm để giải phóng mặt bằng cho các dự án doanh nghiệp với giá rẻ mạt, hầu như luôn có hậu thuẫn bởi cảnh sát cơ động và lực lượng công an.

Những năm gần đây, nhờ Internet, những vụ cưỡng chiếm đất tập thể của nhà cầm quyền địa phương ở Tây Nguyên, từ Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, hay tới Lâm Đồng, được biết tới nhiều hơn. Lấy lý do thu hồi đất để phục vụ lợi ích công, nhiều buôn làng bị cưỡng chiếm đất và khi người dân phản đối đều bị vùi dập dưới dùi cui và bạo lực. Hệ luỵ là mất đất, mất sinh kế và đau lòng hơn là người bản địa bị buộc phải rời bỏ vùng đất tổ tiên gắn liền với không gian văn hoá của họ.

2. Xâm lấn văn hóa và ngôn ngữ

Năm 2005, UNESCO công nhận không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Tuy nhiên, di sản tinh thần phong phú và đặc sắc này đang dần bị thu hẹp, chèn ép và biến tướng. Học giả Grant Evans (1992) trong bài nghiên cứu “Internal Colonialism in the Central Highlands of Vietnam” chỉ ra rằng tình trạng “chủ nghĩa thực dân nội địa” đã làm đứt đoạn và phá hoại lối sống truyền thống và văn hoá của người bản địa ở Tây Nguyên và thực tế đáng tiếc là hiện tượng đó càng thêm xấu đi sau năm 1975.

Trước năm 1975 dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, Người Thượng là chủ thể văn hoá của đại ngàn hùng vĩ với các đặc trưng buôn làng và những tập quán của họ. Tuy nhiên, với chính sách thực dân mới, dân số Tây Nguyên từ khoảng 1,2 triệu người với 18 dân tộc đa phần là các sắc dân bản địa vào năm 1976 đã nhanh chóng tăng đến hơn 6 triệu người với 54 dân tộc vào thời điểm năm 2023. Sự lấn át của người Kinh đẩy các cộng đồng người thiểu số xuống tỷ lệ khoảng 37,6% toàn vùng với khoảng trên dưới 2,1 triệu người.

Đi kèm với đó là sự áp đảo về những áp đặt văn hoá và ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Việt. Các trường từ tiểu học tới đại học đều không dạy ngôn ngữ thiểu số bản địa. Tỷ lệ học sinh theo học văn hoá “người Kinh” càng cao thì nguy cơ bị đồng hoá càng lớn. Không chỉ dừng lại ở việc đồng hoá tự nhiên và tự nguyện, mà ở một số cộng đồng việc trao đổi, hay học hỏi, sinh hoạt bằng ngôn ngữ mẹ đẻ bị nhà cầm quyền can thiệp thô bạo bằng cách yêu cầu chuyển qua tiếng Kinh. Trong các vụ tấn công vào các nhà thờ, nhiều cuốn Kinh Thánh bằng tiếng bản địa bị tịch thu và các mục sư hay linh mục truyền đạo bằng tiếng mẹ đẻ của người Thượng phần lớn bị hạn chế hoặc phải trình báo.

Sự biến mất dần của Nhà Rông, rượu cần hay những bản nhạc cồng chiêng trong buôn làng mà thay vào đó là một biến thể văn hoá khác, tuy cũng có nét tích cực, nhưng ở khía cạnh văn hoá đang trở thành một thách thức cho quyền tiếp cận văn hoá và ngôn ngữ mẹ đẻ của các thế hệ trẻ của các dân tộc thiểu số. Sự thất thế của bản dạng văn hoá đặc trưng Tây Nguyên nếu chỉ thuần tuý là do các yếu tố về xã hội, kinh tế tác động thì cũng là bình thường nhưng khi thiếu các giải pháp, chính sách để gìn giữ bảo tồn văn hoá bản địa, mà ngược lại còn chủ trương bành trướng văn hoá thì có thể coi là một hình thức của chủ nghĩa thực dân nội địa như Grants Evans đã từng nhận xét.

3. Bố ráp tôn giáo và bịt miệng bất đồng chính kiến

Hồ sơ vi phạm quyền tự do tôn giáo tại Tây Nguyên được xếp dày trong các báo cáo quốc tế và trong thực tế phủ bóng đen trên toàn vùng Tây Nguyên. Dựa trên Báo cáo về Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, tôn giáo tại Tây Nguyên thường bị chính quyền xem là yếu tố gây bất ổn xã hội do mối liên kết với các yếu tố dân tộc và lịch sử chính trị khu vực [3]. Cũng trong năm 2023, Bộ Ngoại giao Mỹ quyết định đưa Việt Nam vào Danh sách theo dõi đặc biệt (SWL) vì thành tích đàn áp tôn giáo. Với báo cáo cụ thể của Ủy ban Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) năm 2023 cho biết Việt Nam giam giữ 80 tù nhân tôn giáo [4], mà trong đó có rất nhiều nạn nhân là người sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Nhà cầm quyền địa phương thường gây áp lực để buộc các nhóm tôn giáo chưa đăng ký phải ngừng hoạt động hoặc gia nhập các tổ chức tôn giáo đã được công nhận. Đối tượng của các hành vi sách nhiễu chủ yếu là Tin Lành và Công Giáo, nhưng mức độ đàn áp nặng nề nhất là các nhóm Tin Lành bị gắn cho mác “phản động” như Tin Lành Đề Ga, hoặc gần đây nhất là Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ Tây Nguyên. Một số tín đồ bị triệu tập, thẩm vấn hoặc hành hung để ép từ bỏ tôn giáo của họ.

Theo thông tin của các tổ chức quốc tế như Human Rights Watch và các báo cáo của phía Hoa Kỳ, cơ quan chức năng sử dụng bạo lực hoặc đe dọa để ngăn cản các buổi tụ họp tôn giáo hoặc cử hành nghi lễ. Cơ quan điều tra thường hình sự hoá luận điệu mà họ gọi là truyền đạo bất hợp pháp. Điển hình được đề cập trong báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là trường hợp Thầy Truyền đạo Y Krếc Byă, một thành viên Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ Tây Nguyên, bị bắt giữ tại Đắk Lắk vì cáo buộc “phá hoại chính sách đại đoàn kết.” Đây là lần thứ 2 ông bị bắt giam và lần này bị kết án 13 năm tù giam, 5 năm quản chế.

Giải thưởng Nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2024 được trao cho Thầy Truyền đạo Tin Lành Y Krec Bya, người sắc tộc Ê Đê vì hành trình dài 20 năm đấu tranh không mệt mỏi cho quyền tự do tôn giáo và đòi quyền lợi cho đồng bào sắc tộc ở Tây Nguyên của ông. Trường hợp của Y Krếc Byă và điểm nhóm tôn giáo của ông bị đàn áp là minh chứng cho thấy sự ác cảm mà nhà cầm quyền gắn cho các nhóm tôn giáo mới, đặc biệt là các nhóm có đông tín đồ là người dân tộc thiểu số. Hệ quả là các tôn giáo “không vừa mắt” nhà cầm quyền gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn thành quy trình đăng ký hoặc bị từ chối mà không có lý do rõ ràng. Những vị chức sắc hoặc thành viên còn không được cấp hộ chiếu, vì sợ đi ra nước ngoài sẽ tham gia các buổi báo cáo vi phạm nhân quyền hoặc là để răn đe các tín đồ khác.

Thay cho lời kết

Tóm lại, nhân quyền trên mảnh đất Tây Nguyên, cách riêng là thực trạng đàn áp nhắm vào các sắc dân thiểu số, vẫn đang trong tình trạng u ám và chưa có dấu hiệu khởi sắc. Với thời gian dài cùng sống cùng ăn uống và chia sẻ vui buồn cùng những người Thượng, đặc biệt là giai đoạn ở trong tù, tôi có thể cảm nhận được nét riêng và tinh thần của những người con của núi rừng Tây Nguyên.

Sự đơn sơ và niềm tin son sắt của họ, sức bền bỉ của những cộng đồng yếu thế trước sức mạnh của cường quyền, những căng thẳng sẽ vẫn tiếp diễn trên miền đất đỏ Ba-zan. Những lời hứa suông không đi kèm với giải pháp và thực tâm muốn cải thiện hồ sơ nhân quyền đáng xấu hổ ở 5 tỉnh trên “Nóc nhà Đông Dương” thì sự xuống dốc vẫn chưa dừng lại.

Không chỉ là những cuộc bố ráp vào nhà thờ, không dừng lại ở việc dập tắt những mầm mống phản đối, ngay cả lời ca tiếng hát mà cha ông bao đời để lại cũng dần bị bóp nghẹt. Khi còng số tám siết tay của những người dân bản địa đang bị cưỡng cướp đất đai sinh kế thì tiếng kêu gào giữa những quả đồi trọc cũng không có ai lắng nghe. Tiếng cồng chiêng lịm tắt.

Tôi nhớ về ngôi nhà thờ bị chiếm đóng, bỏ hoang phế cạnh ngay ngôi trường tiểu học thuở ấu thơ của tôi. Tôi nhớ tới những vị thừa sai ngoại quốc đến cùng sống và nằm xuống nơi buôn làng người Thượng. Một niềm mong ước nhỏ nhoi là mọi chính sách đừng coi người bản địa như vấn đề nhưng nhìn họ như chủ thể trung tâm có thể thay đổi vận mệnh của chính mình. Núi rừng cao nguyên xanh mươn mướt với tiếng chim kêu vượn hót đó là ngôi nhà đích thật của những người anh em đồng bào của tôi. Ước gì, khi màn đêm buông xuống, bên ché rượu cần, già làng ngồi ngâm nga tràng sử thi hùng tráng về chàng Đăm-San.

“Đăm-San nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng. Bây giờ thì ngày ngày cậu đã đi rẫy làm cỏ, sửa chòi, biết tìm mua ching, mua knă, biết trả tự do cho nô lệ gái trai. Vì vậy ai ai cũng nói cậu ta đã là một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa, như người cậu của cậu ta xưa kia…”

Trần Minh Nhật

[1] Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Một số vấn đề phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên năm 2015, Buôn Ma Thuột, 2016.

[2] Evans, G. (1992). Internal Colonialism in the Central Highlands of Vietnam. Sojourn: Journal of Social Issues in Southeast Asia, 7(2), 274–304.

[3] Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (2024), Báo Cáo về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế tại Việt Nam 2023, Washington DC.

[4] Ủy ban Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF, 2023), Country Update: Religious Freedom Conditions in Vietnam in 2023. Washington DC.