
Trước năm 1975, tại Việt Nam, người ta có thể nghe loáng thoáng về giải thưởng Nobel như là một giải thưởng cao quý trên thế giới được trao tặng cho những ai có những công trình văn hóa, khoa học giúp ích cho nhân loại. Nhưng thật ra, rất ít người Việt Nam hiểu biết tường tận về nguồn gốc cũng như xuất xứ của giải thưởng này. Giải thưởng này được ông Alfred Nobel (1833-1896), người Thụy Điển, một nhà khoa học và doanh nhân đã phát minh ra phương pháp chế ngự chất nổ hóa học TNT thiết lập. Trước khi qua đời, ông đã lập di chúc để lại tất cả gia sản đồ sộ của ông làm giải thưởng trao tặng hàng năm cho người có tài. Nó bắt đầu được trao tặng từ năm 1901. Thực ra giải thưởng này có nhiều bộ môn. Mỗi bộ môn do một cơ quan xét duyệt và trao tặng. Giải Nobel về Vật Lý và Hóa Học do Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao. Giải Nobel về Y Khoa và Sinh Lý Học do viện Karolinska của Thụy Điển trao. Riêng giải Nobel Hòa Bình do một Ủy Ban được Quốc Hội Na Uy cắt cử duyệt xét và trao tặng. Sở dĩ trong bài này đề cập đến giải Nobel là vì thứ nhất, nó có liên quan đến một quốc gia Bắc Âu là Vương Quốc Na Uy; và thứ nhì vì sau cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc với cuộc chiến thắng quân sự của quân cộng sản Bắc Việt, giải thưởng Nobel “Hòa Bình” đã được Na Uy quyết định trao cho Lê Đức Thọ của cộng sản Bắc Việt và Henri Kissinger, ngoại trưởng Hoa Kỳ. Cả hai tên này đều có trách nhiệm về hàng triệu cái chết của người Việt Nam trước và sau 1975.

Hàng trăm ngàn người Việt Nam đã chấp nhận muôn ngàn hiểm nguy, bỏ nước ra đi trên những con thuyền mong manh, vượt đại dương đi tìm tự do. Biết bao nhiêu người đã bỏ thây dưới đáy biển sâu. Làn sóng người vượt biên “boat people” đã làm thế giới kinh hoàng, thức tỉnh. Nhiều tàu buôn, trong đó có cả tàu Na Uy đã cứu người vượt biển. Thế là trên đất nước giá băng Na Uy đã hình thành một cộng đồng người Việt Tỵ Nạn. Nghịch cảnh với thời tiết khắc nghiệt, ngôn ngữ xa lạ đã là những yếu tố quy tụ đồng hương chúng ta tại Na uy trong tinh thần hướng về Đất Nước tích cực tham gia đấu tranh giải phóng Việt Nam thoát khỏi gông cùm cộng sản để trở về quê cha đất tổ. Chính sự dũng cảm của đồng hương ta đã chinh phục được cảm tình, lòng ngưỡng mộ và nhất là sự thông cảm của người Na Uy. Họ đã hiểu được tại sao người Việt Nam đã tới nước họ. Họ đã nhìn thấy phần nào sự sai lầm của họ trong việc trao giải Nobel cho những kẻ tội phạm chiến tranh. Lòng thiện cảm và tình bằng hữu đã thúc dục nhiều người Na Uy, điển hình là những vị dân cử, những chính trị gia, những vị giáo sư đại học, các nhà truyền thông, báo chí… không những đồng tình ủng hộ công cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam mà còn tích cực tiếp tay trong những công tác nhằm hỗ trợ những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Họ tin tưởng rằng sự đóng góp của họ cộng với ý chí sắt đá của người dân Việt Nam, sẽ sớm giúp Việt Nam chấm dứt được chế độ độc tài cộng sản để xây dựng một nền dân chủ đích thực cho người dân Việt Nam.

Sự quan tâm, giúp đỡ từ phía người Na Uy đối với công cuộc đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ của dân tộc Việt Nam là một quá trình khá dài và bền bỉ từ hàng chục năm nay. Khởi sự là sự lắng nghe về những nỗi niềm của người tỵ nạn. Rồi tới những sự hành động khiêm nhượng nhằm đồng tình ủng hộ đồng hương chúng ta như ký tên trong các bản kiến nghị, tuyên bố ủng hộ trong các cuộc mít tinh, biểu tình… Dần dà, những hành động hỗ trợ công cuộc tranh đấu cho Nhân Quyền tại Việt Nam trở nên tích cực hơn. Đầu tháng 4/2001, ông Lars Rise, dân biểu Quốc Hội Na Uy đã cùng một thông dịch viên tới Việt Nam để thăm linh mục Nguyễn Văn Lý đang bị cô lập tại giáo xứ Nguyệt Biều, Thừa Thiên – Huế và hòa thượng Thích Thiện Hạnh tại Tổ Đình Từ Hiếu. Tuy thành công trong việc gặp các nhà đấu tranh co Tự Do Tôn Giáo, nhưng ông và cộng sự viên đã bị công an CSVN gây nhiều khó khăn. Tiếp sau đó người Na Uy đã có nhiều hoạt động ngoạn mục. Người ta ghi nhận cuộc tiếp xúc tại Hà Nội giữa phóng viên Anne Fredrikstad thuộc đài truyền hình TV2 của Na Uy và một nữ đảng viên đảng Việt Tân hồi tháng 11/2004. Sau khi Sáng Hội Rafto của Na Uy trao tặng giải Nhân Quyền cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ vào năm 2006, hồi tháng 3/2007 một nữ nhân viên của Hội đi cùng 1 phóng viên tới thăm Hòa Thượng đã bị công an bắt giữ. Như để cho CSVN thấy rõ quan tâm của Na Uy đến vấn đề Nhân Quyền tại Việt Nam, ông Đại Sứ và vị bí thư thứ nhất của ông đã chính thức tới thăm Hòa Thượng. Chính phủ Na uy cũng cho biết là từ năm 2003 Na uy đã có những

cuộc đối thoại chính thức về Nhân Quyền với CSVN. Ngày 29/1/2008, 20 dân biểu Na Uy đã đồng ký tên bức thư gửi Nguyễn Minh Triết yêu cầu Việt Nam phải tôn trọng Nhân Quyền, trả tự do cho những nhà dân chủ và ngưng sách nhiễu gia đình họ. Gần đây nhất, dân biểu Peter Grimark đã tới Việt Nam và đã thăm viếng nữ văn sĩ trần Khải Thanh Thủy. Sau đó ông đã bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam ngày càng được thế giới đồng tình ủng hộ. Na Uy và nhiều quốc gia khác đã lên tiếng, đã ra nghị quyết, đã trực tiếp nêu vấn đề với CSVN và yêu cầu họ thực thi dân chủ, tôn trọng Nhân Quyền tại Việt Nam. CSVN không thể bưng tai bịt mắt trước sức mạnh của nhân dân và của áp lực quốc tế.