Bài học rút tỉa từ chuyến đi Đông Nam Á của Obama

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Joshua Kurlantzick
4/12/15

Mặc dầu chuyến đi Á Châu của Tổng thống Obama hồi đầu tháng này bị lu mờ bởi phản ứng thế giới về vụ khủng bố tấn công Paris và cuộc tranh luận về chính sách tỵ nạn tại Hoa Kỳ, chuyến viếng thăm Mã Lai và Phi Luật Tân có cho thấy một số bài học về quan hệ của Hoa Kỳ với Đông Nam Á. Chuyến viếng thăm Đông Nam Á là một phần của chuyến đi dài của Obama trong đó có đi dự Hội nghị Thượng đỉnh G-20 ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhằm để chứng minh mối cam kết của Hoa Kỳ xoay trục tại Đông Nam Á. Một phần của mối cam kết đó là bảo đảm sẽ thường xuyên có viên chức cao cấp của Hoa Kỳ, kể cả Tổng thống, tham dự hội nghị thượng đỉnh ASEAN. Các chính quyền trước đây của Hoa Kỳ bị chỉ trích là không gửi viên chức cao cấp đi dự buổi họp ASEAN.

Tuy Tổng thống Obama có đến dự buổi họp ASEAN tại Kuala Lumpur, nhiều buổi họp báo trong chuyến đi lại chú tâm về các chính sách chống khủng bố và chính sách về người tỵ nạn, khiến làm nhẹ đi nỗ lực của chính quyền Hoa Kỳ dùng chuyến đi này để nhấn mạnh tầm quan trọng của Đông Nam Á.

Chuyến đi Đông Nam Á cũng xác nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa Tòa Bạch Ốc và Thủ Tướng Mã Lai Najib tun Razak. Tuy có nhiều chứng cớ cho thấy tình hình đàn áp đối kháng tại Mã Lai, Tổng thống Obama đã không chỉ trích công khai chính sách của ông Najib. Tuy nhiên Obama trong một buổi gặp riêng với ông Najib có đề cập đến tình hình tự do ngôn luận và nhu cầu cần có sự minh bạch trong chính quyền; và Obama có tiếp xúc với một số nhà hoạt động xã hội dân sự Mã Lai. Trong khi đó vào chuyến thăm Cam Bốt năm 2012, Obama đã dùng nhiều thì giờ trong các cuộc gặp gỡ riêng với Thủ tướng Hun Sen để thảo luận về nhân quyền và tự do chính trị, và phát ngôn nhân của Obama không ngần ngại khi đề cập đến nhân quyền là trọng tâm của cuộc gặp gỡ.

Mặc dầu có những vấn đề đối nội, gồm có tình trạng đàn áp đối kháng và xì căng đan 600 triệu đô la trong quỹ cá nhân của ông Najib, chính quyền Najib đã chứng tỏ là một đối tác hữu hiệu với Hoa Kỳ trong việc hợp tác chống khủng bố, xây dựng mối phòng thủ răn đe các hoạt động của Trung Quốc trong vùng Biển Đông và những vấn đề chiến lược khác. Ngay cả khi trong tương lai, nếu liên minh đối lập tại Mã Lai có lên nắm chính quyền thì họ nhiều phần cũng không bớt quan tâm đến mối quan hệ chiến lược cận kề với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với phe đối lập đang trong tình trạng rối loạn, và không có nhân vật nào trong phe đối lập khả dĩ làm đối thủ với Najib, dường như Tòa Bạch Ốc không có chọn lựa nào khác với Thủ tướng Najib.

Cạnh đó, chuyến đi của Obama còn cho thấy là tuy có những bất đồng nội bộ trong ASEAN về cách giải quyết tranh chấp Biển Đông, mức độ chung lo ngại về Trung Quốc trong số các thành viên có gia tăng. Tại hội nghị thượng đỉnh ở Kuala Lumpur, Hoa Kỳ và ASEAN ký hiệp định để lập ra một “đối tác chiến lược” mới. Mặc dầu hiện thời đối tác chiến lược Mỹ-ASEAN này chỉ là một tài liệu biểu kiến, nó là một thông điệp cho Bắc Kinh rằng không những chỉ có những quốc gia thiệt hại nhiều nhất như Việt Nam và Phi Luật Tân, mà tất cả các quốc gia thành viên Đông Nam Á đang tìm kiếm những phương cách quả quyết hơn để phòng chống quyền lực biển đang dâng lên của Trung Quốc.

Hoàng Thuyên lược dịch

Nguồn: Council on Foreign Relations

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc hôm 7/5/2024. Ảnh: UN Web TV

Hơn 300 khuyến nghị cho Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền LHQ

Chiều thứ năm, ngày 9 tháng 5, báo cáo về cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (Universal Periodic Review – UPR) chu kỳ bốn của Việt Nam do nhóm ba nước Kazakhstan, Bulgaria và Paraguay soạn thảo được công bố. Ngày 10/5, tại phiên họp thứ 17, bản báo cáo sẽ chính thức thông qua tại Hội Đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Bản báo cáo cho biết, có 14 nước đặt câu hỏi trước, 133 nước phát biểu hôm 7/5, và 320 khuyến nghị đã được đưa ra.

Bà Kelly Billingsley, Phó Đại diện thường trú tại LHQ của Phái bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (trái), phát biểu trong kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ, hôm 7/5/2024. Ảnh: UN Web TV

Mỹ, Anh kêu gọi Việt Nam sửa đổi Điều 117, 331 Bộ Luật Hình sự

Chính phủ Hoa Kỳ, Anh bày tỏ sự quan ngại về các hình phạt hình sự đối với việc thực hiện quyền tự do ngôn luận và lập hội tại Việt Nam, đồng thời khuyến nghị Hà Nội sửa đổi các điều luật 117, 331 của Bộ Luật Hình sự.

Phát biểu tại kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ, hôm 7/5, bà Kelly Billingsley, Phó Đại diện thường trú tại LHQ của Phái bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, bày tỏ sự quan ngại về việc chính quyền Việt Nam sử dụng các điều luật hình sự đối những người bày tỏ quan điểm ôn hòa.

Nhà hoạt động Nguyễn Văn Dũng (phải), tự Dũng Aduku, trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội. Ảnh: Facebook Nhật Ký Yêu Nước

Xã hội dân sự chia buồn về cái chết của nhà hoạt động Nguyễn Văn Dũng

Giới xã hội dân sự hôm 9/5 dấy lên nhiều lời chia buồn về cái chết của nhà hoạt động Nguyễn Văn Dũng, tự Dũng Aduku, cựu quản trị viên trang Facebook “Nhật Ký Yêu Nước.”

Một ngày trước, trang Facebook “Nhật Ký Yêu Nước” xác nhận về cái chết của ông Dũng và mô tả ông “từng tham gia nhiều cuộc biểu tình chống quân Trung Cộng bành trướng lãnh hải Việt Nam như vụ giàn khoan HD-981.”

Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Đỗ Hùng Việt (hàng đầu, giữa) trong phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về hồ sơ nhân quyền Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Geneva, Thụy Sĩ,, ngày 7/5/2024. Ảnh: UN Web TV

Việt Nam phát ngôn sai lạc về quyền của người lao động

HRW phát biểu rằng chính quyền Việt Nam đang đưa ra các thông tin sai lạc hoặc dễ gây hiểu lầm cho phía Hoa Kỳ và các đối tác kinh tế khác để đạt được hay duy trì các quy chế ưu đãi thương mại.

“Nói rằng người lao động Việt Nam có thể thành lập công đoàn hay mức lương của họ là kết quả của sự thỏa thuận tự nguyện giữa người lao động và người sử dụng lao động là lời tuyên bố sai lạc trắng trợn,… Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình.” (ông John Sifton, Giám đốc Vận động Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền – HRW)