Bao Giờ Đi Mua Bó Rau Phải Trình… Hộ Khẩu ?

Trần Trọng Nghĩa
Có trong tay một cái điện thoại di động không có nghĩa là có thể gọi được ngay.

Những ngày đầu năm, báo chí và dư luận trong nước, nhất là trong giới sử dụng điện thoại di động, bàn tán nhiều về vụ Bộ Bưu chính và Viễn Thông đưa ra đề án “quản lý thuê bao điện thoại di động trả tiền trước”. Nội dung đề án này là kể từ ngày 1/1/2007 các thuê bao trả trước sẽ phải đăng ký các thông tin như số máy, ngày tháng sử dụng dịch vụ, họ tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân (CMND) hoặc hộ chiếu. Đối với những người chưa có CMND hoặc hộ chiếu có nhu cầu sử dụng điện thoại di động trả trước có thể nhờ người có CMND hoặc hộ chiếu đứng tên đăng ký sử dụng”. Cũng nên biết, có trong tay một cái điện thoại di động không có nghĩa là có thể gọi được ngay. Trước hết, chiếc máy phải được hòa mạng. Hiện nay tại Việt Nam, có 5 doanh nghiệp khai thác mạng là Vinaphone của Bưu Chính Viễn Thông; Mobiphone, hợp doanh giữa Bưu Chính Viễn Thông với công ty Comvik của Thụy Điển; Viettel Mobile của Công ty Viễn thông quân đội; EVN của Công ty Viễn thông Điện lực; S-Fone của Công ty Cổ Phần Dịch Vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn SPT. Muốn hòa mạng với 1 trong 5 mạng này phải mua một thẻ SIM của họ để gắn vào máy. Có 2 loại thẻ SIM: một là thuê bao dài hạn, trả tiền hàng tháng; hai là loại thẻ SIM trả khoán trước một số phút gọi, dùng hết thời lượng đó, thẻ SIM có thể không còn dùng được nữa hoặc có thể đóng thêm tiền để gia hạn. Chính thẻ SIM này sẽ cho chiếc máy điện thoại di động số gọi của máy.

Đối với những thân chủ thuê bao dài hạn, trả tiền điện thoại hàng tháng, thì nhất thiết phải thông báo cho công ty khai thác mạng danh tánh, địa chỉ để hàng tháng họ gửi hóa đơn tới nhà đòi tiền. Nhưng đối với những người khác không muốn thuê bao dài hạn, nhất là du khách, thì họ chỉ cần mua loại thẻ SIM trả tiền trước. Theo báo điện tử VietNamNet thì ở Việt Nam, “hiện nay, số lượng thuê bao di động trả trước chiếm hơn 70% tổng số thuê bao di động”. Trong số này, báo Sài Gòn Tiếp Thị cho biết “Bây giờ một người dùng có khá nhiều sim, phải gọi đôi ba lần mới có thể tìm được”. Cũng nên biết thêm, theo số liệu của Bộ Bưu Chính Viễn thông thì năm 2005 có khoảng 9,8 triệu thuê bao di động, năm 2006 có 15,2 triệu và dự phóng năm 2010 sẽ có 24 triệu.

Những con số trên đây chứng tỏ người Việt Nam tuy đang sống trên một đất nước đang phát triển, tức là còn nghèo khổ; nhưng rất ưa thích và có khả năng làm chủ những kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Hiện tượng này còn nói lên sự khao khát thông tin và trao đổi thông tin, nói theo ý nghĩa thông thường như thông báo và hỏi thăm tin tức của nhau. Đây cũng là điều Nhà Nước CSVN đã ghi rõ trong Điều 69 của Bản Hiến Pháp 1992. Vì các hệ thống điện thoại di động do các nước Tây Phương thiết kế giúp CSVN, nên họ đã làm như tại nước họ. Luật pháp nước họ không cho phép chính quyền xen vào đời tư của công dân, mà điện thoại là một khía cạnh của đời tư. Muốn theo dõi điện thoại công dân phải có án lệnh của tòa án. Vụ án Watergate hồi năm 1974 đã khiến tổng thống Nixon phải từ chức. Nhiều nhà lãnh đạo chính phủ ở Pháp và các nước khác đã bị truy tố vì nghe lén điện thoại. Chính vì vậy mà việc mua bán các thẻ SIM trả tiền trước đã rất “thoải mái” và như lời phát biểu của một quan chức của một mạng di động trên báo chí: “dễ dàng như bán một mớ rau ngoài chợ”.

Nhưng vì Nhà Nước CSVN không thể chấp nhận được sự kiện dân chúng thông tin cho nhau, chia sẻ, chuyện trò với nhau ngoài sự kiểm soát của đảng. Họ biết rằng tham nhũng, thối nát của đảng đã làm dân phẫn nộ và vì thế họ sợ dân âm mưu, bàn tán với nhau lật đổ họ xuống. Chính vì thế mà họ đã có đề án quản lý việc mua thẻ SIM trả trước bằng cách bắt người mua phải đang ký và cung cấp những thông tin về lý lịch. Biện pháp này không phải là một biện pháp kinh tế nhằm bảo đảm không bị lỗ lã cho các doanh nghiệp khai thác mạng điện thoại di động. Nó có mục đích chính trị nhằm củng cố chế độ độc tài. Ngoài Bộ Bưu Chính Viễn thông, đề án dự trù có sự phối hợp của Bộ Công An và Bộ Văn Hóa Thông Tin. CSVN cho rằng “việc không có các thông tin về các thuê bao trả trước đã dẫn việc gửi tin nhắn quấy rối, gọi quốc tế về Việt Nam bất hợp pháp, lưu truyền các thông tin xấu… mà không thể xác định danh tính của chủ thuê bao”. Họ còn biện giải là quản lý thuê bao di động trả trước là để “ngăn ngừa các phần tử xấu lợi dụng mạng điện thoại di động gây mất ổn định xã hội…”.

Đề án quản lý các thuê bao di động trả trước không những đã gây phiền hà cho nhân dân, những người xử dụng điện thoại di động, mà còn gây thiệt hại cho những doanh nghiệp khai thác mạng di động. Cô Thu Huyền, sinh viên tại Hà Nội nói: Cứ vài tháng em lại thay một cái sim trả trước (để được hưởng các chương trình khuyến mãi của các hãng di động), nếu cứ phải đi đăng ký liên tục thì cũng không tiện lắm”. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Tổng giám đốc Viettel nói: “Nếu như áp dụng việc quản lý đối với thuê bao di động trả trước thì việc phát triển thuê bao chắc chắn sẽ giảm”. Nếu đem so sánh bán thẻ SIM với bán bó rau thì về phía người dân, trước đây đi mua thẻ SIM dễ như mua bó rau không cần khai báo, nay đi mua sẽ không dễ như thế nữa. Không biết tới lúc nào ra chợ mua bó rau muống cũng phải xuất trình chứng minh nhân dân hay sổ hộ khẩu?