Lịch sử sẽ ghi rằng đến cuối năm 2007, hơn 120 nước trên thế giới đã thi hành chế độ tự do dân chủ thì Việt Nam là một trong mấy nước sau cùng còn xót lại trên trái đất vẫn phải sống dưới ách độc tài đảng trị. Và 16 năm sau khi dân Nga đã lật đổ chế độ cộng sản, thì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn còn dùng một điều luật của Liên Bang Xô Viết để xử những người không đồng chính kiến. Như Luật Sư Nguyễn Xuân Phước ở Dallas, Texas, nêu ra, điều 88 trong Bộ Luật Hình Sự ở Việt Nam hiện nay là một bản sao của điều 58-1 trong Bộ Luật Hình Sự có từ thời Stalin ở Liên Xô. Sau khi dân Nga đã xóa bỏ chế độ độc tài, họ đã xóa luôn điều 58-1 trong luật hình, các nước cộng sản cũ ở Trung Á, Ðông Âu cũng đã tẩy rửa vết nhơ đó, nhưng Cộng Sản Việt Nam vẫn giữ lại qua điều luật 88. Các luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân mới bị xử lại bằng điều luật ô nhục đó, chỉ vì họ cổ động cho tự do dân chủ và quyền làm người.
Năm 1923 Phan Bội Châu ở Quảng Châu, Trung Quốc, đã dùng bút hiệu Phan Thị Hán viết những bài tố cáo các đạo luật dã man mà thực dân Pháp dùng để trói buộc và đàn áp dân Việt Nam. Gần một trăm năm trôi qua, bây giờ đảng cộng sản cũng sử dụng những điều luật lạc hậu với mục đích bịt miệng những người can đảm lên tiếng đòi cho dân Việt được tự do.
Ðiều 88 Bộ Luật Hình Sự ở Việt Nam ấn định những hành vi bị gán cho tội “chống nhà nước” trong đó có việc “tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân.” Như Luật Sư Nguyễn Xuân Phước đã phân tích, khái niệm chính quyền nhân dân rất mơ hồ không được định nghĩa trong luật pháp cũng như hiến pháp 1992 mà đảng cộng sản đang sử dụng. Nhưng điều luật này còn trái ngược với các điều 69 và 146 trong chính bản hiến pháp đó. Ðiều 69 trong hiến pháp quy định các công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình, vân vân, với một câu hạn chế là “theo quy định của pháp luật.” Ðiều 146 viết rằng “…Mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với hiến pháp.”
Căn cứ trên 2 điều trên thì điều 88 hình luật vô giá trị vì trái với hiến pháp. Ðiều 88 đã tước bỏ quyền tự do ngôn luận của người dân, cho nên “không phù hợp” với điều 69 trong hiến pháp, tức là vi phạm điều 146. Dù điều 69 nói các quyền tự do phải “theo quy định của pháp luật” thì những người làm luật pháp sau đó cũng chỉ có quyền quy định cách sử dụng các quyền tự do, chứ không thể làm ra những thứ luật hủy bỏ các quyền tự do của dân mà hiến pháp đã bảo đảm.
Những lý luận trên cho thấy điều 88 trong luật hình sự hoàn toàn phản hiến, vô giá trị và phải bãi bỏ. Nhưng chế độ cộng sản ở nước ta không có một viện bảo hiến như thời Việt Nam Cộng Hòa, cho nên đảng cộng sản tha hồ làm ra những điều luật đi ngược với bản hiến pháp mà họ buộc dân chúng phải theo.
Một nhóm người muốn bảo vệ quyền lực mà đặt ra những điều luận vi phạm cả bản hiến pháp của mình, đó là một dấu hiệu của trình độ thấp kém cả về đạo lý lẫn về trí thức. Một nước đặt dưới sự cai trị của cái băng đảng đó thì toàn dân nước đó cũng chịu nhục lây! Như Phan Bội Châu viết trong bài “Dư Ngu Sám” (Lời sám hối ‘Mình Ngu’) vào năm 1918: “Bị oai quyền chuyên chế áp bức, có đầu mà không được ngẩng lên, bị pháp luật dã man nó bó buộc; có thân mà không được đứng thẳng; miệng lưỡi như nước chảy nhưng co quắp không duỗi ra được…” (Theo bản dịch của Chương Thâu). Phan Bội Châu cho in bài Dư Ngu Sám trên một tờ báo ở Chiết Giang, Trung Quốc, nhưng chắc cụ đã viết bài đó từ cuối thế kỷ 19. Vì trong một đoạn cụ viết, “Ôi, thế kỷ 19, những học thức về sự tiến hóa của nhân đạo không chân mà chạy khắp hoàn cầu!” Ðọc câu đó chúng ta lại nghĩ đến thời nay, thế kỷ 21. Cuối thế kỷ 20 bao nhiêu quốc gia đã tự cởi trói thoát khỏi ách cộng sản rồi, mà tới thế kỷ này người Việt Nam vẫn phải sống dưới một điều luật áp chế của nhà nước Liên Xô! Nếu như Phan Bội Châu sống bây giờ, cụ có thấy vậy là một nỗi nhục hay không!
Các luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Ðài và bà Lê Thị Công Nhân đã nêu lên tính cách vi hiến của điều luật 88, nhưng các người đóng vai quan xử án bỏ ngoài tai.
Nhưng điều 88 trong Bộ Luật Hình Sự còn vi phạm các công ước quốc tế mà nhà nước cộng sản ở Việt Nam đã ký kết. Theo một luật gia khác cho biết, Việt Nam đã có luật về việc “ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” vào năm 2005. Trong đó điều số 6 nói rằng khi trên cùng một vấn đề mà luật lệ ở trong nước khác với các điều ước quốc tế quy định khác nhau “thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.” Ngoài ra, các văn bản pháp luật ở Việt Nam phải “bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế.”
Một trong những điều ước quốc tế mà chính quyền Hà Nội đã ký là Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, điều 19 viết rằng, “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu…” trong đó có quyền tìm kiếm, thu nhận và phổ biến tin tức và ý kiến vân vân. Ðiều 88 luật hình sự trái ngược với lời văn trong bản tuyên ngôn nhân quyền, phải coi là vô giá trị. Trong Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Tự Do Chính Trị và Dân Sự cũng viết, “Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp,” và “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm…” Quyền này chỉ bị giới hạn nếu xúc phạm các quyền tự do và thanh danh của người khác; hoặc nếu cần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng hoặc đạo lý của xã hội.
Xét trên văn bản đạo luật về các điều ước quốc tế ở Việt Nam và căn cứ trên các công ước mà Việt Nam đã ký, thì việc xét xử những người bất đồng chính kiến dựa trên một hình luật lạc hậu của thời Xô Viết là hoàn toàn phi pháp.
Các luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân đã thi hành quyền tự do phát biểu ý kiến một cách hòa bình, với các hành động và lời lẽ hòa nhã, tôn kính; nhưng họ vẫn bị đảng cộng sản khép vào tội chống nhà nước để bỏ tù. Bà Lê Thị Công Nhân chỉ tới thăm một lớp với mục đích thảo luận và giải thích về nhân quyền, mà cũng bị bắt. Báo chí Việt Nam và thế giới đã gọi đây là một phiên tòa “xử nhân quyền.” Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân sẽ hãnh diện được gọi là những “luật sư nhân quyền!” Chỉ vì nói chuyện nhân quyền mà họ bị coi là tội!
Chúng ta không ngạc nhiên về những bản án mà các luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân phải gánh chịu. Vì bản chất độc tài của đảng cộng sản ở nước ta vẫn không thay đổi. Tất cả hệ thống hiến pháp, luật pháp chỉ là những công cụ cho đảng cộng sản thi hành chính sách chuyên chế, chính sách này vẫn được ghi rõ trong cương lĩnh của đảng. Thái độ tham quyền cố vị của họ khiến cả nước ta chịu tai tiếng nhục nhã, họ sẽ bị toàn dân và lịch sử phán xét. Khi nhìn vào hình ảnh hàng trăm người đã kéo đến trước tòa án trong phiên xử hai luật sư nhân quyền, chúng ta hiểu rằng người dân Việt đã có ý thức về các quyền tự do dân chủ của mình. Những hạt giống tự do đã được trồng trong lòng dân Việt Nam, từ thời Phan Bội Châu, đến nay vẫn được các thế hệ sau vun đắp và tưới tẩm không ngừng.
Trong các tin tức vụ án xử các luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân, chúng ta thấy phấn khởi khi thấy tuổi tác họ còn rất trẻ, 38 tuổi và 28 tuổi. Ðó là những thanh niên lớn lên dưới chế độ cộng sản. Họ từng bị nhồi sọ trong nền giáo dục chuyên chế theo chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng họ đã hiểu con người chỉ sống xứng đáng làm người nếu được sống tự do. Trong lúc những nhà tranh đấu cho tự do dân chủ ở nước ta thuộc thế hệ Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà, vân vân, đang mỗi ngày một già đi, chúng ta biết có một thế hệ trẻ đã can đảm đứng lên đòi quyền sống như những con người có phẩm giá. Ðó là tin mừng cho tương lai dân tộc. (Người Việt; Tuesday, November 27, 2007)
Ngô Nhân Dụng