Trong các chế độ độc tài, quyền lực cai trị thường tựa trên ba chân vạc chính: 1/ Guồng máy bạo lực gồm công an và quân đội; 2/ Hệ thống truyền thông bưng bít một chiều; 3/ Hệ thống giáo dục ngu dân và giả dối. Những năm sau này, dưới chiêu bài đổi mới, Cộng sản Việt Nam còn dựa trên cái gọi là hệ thống luật lệ do chính chế độ vạch ra để kiểm soát xã hội theo nhu cầu riêng của đảng trong bối cảnh mở cửa làm ăn với bên ngoài. Chính vì nắm trong tay những phương tiện có khả năng trấn áp người dân ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào, các chế độ độc tài đã tạo ra một không khí sợ sệt bao trùm lên cả nước. Chính lề lối cai trị này đã khiến người dân luôn luôn bị ám ảnh những lo sợ và mặc nhiên phục tùng mệnh lệnh của kẻ độc tài. Hậu quả của sự sợ sệt này, người dân đã vô hình chung giúp cho chế độ độc tài có thể nắm chặt và duy trì các nguồn lực chính trị trong tay. Các nguồn lực chính trị này biểu hiện trên các hình thức:
Thứ nhất là sự tuân phục của người dân vào guồng máy chính trị vì bị nhồi sọ và khống chế để tin rằng đây là chế độ cầm quyền có chính danh.
Thứ hai là sự cộng tác và phục tùng của tầng lớp chuyên gia, trí thức trong các cơ quan nhằm giúp cho chế độ độc tài tồn tại và phát triển xã hội theo những khuôn mẫu riêng của độc tài.
Thứ ba là sự tập trung kiểm soát và phân bố các tài nguyên thiên nhiên, các nguồn tài chánh, hệ thống kinh tế, các phương tiện giao thông, các phương tiện truyền thông, các cơ sở giáo dục lên các nhu cầu của người dân theo lối bao cấp để dễ sai khiến.
Thứ tư là sự trừng phạt hay phong tỏa đời sống đối với những ai bất phục tùng hay bất hợp tác để luôn luôn duy trì tình trạng tuân phục và hợp tác mà chế độ rất cần để tồn tại và thực thi các chính sách .
Tất cả những nguồn lực chính trị nói trên đều tùy thuộc vào sự chấp nhận chế độ và nhất là sự quy phục và tuân thủ của người dân cũng như sự hợp tác của người dân đối với các công tác do đảng, đoàn Cộng sản đưa ra. Sự hợp tác, sự tuân phục và sự hỗ trợ của người dân vào các chính sách cai trị của chế độ độc tài sẽ làm gia tăng nguồn lực chính trị và do đó sẽ tăng cường uy quyền của các đảng độc tài Cộng sản trong xã hội. Nhưng ta nên nhớ rằng mọi sự trên đời không có gì bất biến. Cuộc cách mạng Đông Âu bùng nổ vào cuối thập niên 80 đưa đến sự sụp đổ toàn diện của khối Cộng sản quốc tế Liên Xô vào năm 1991, cũng như hàng loạt các cuộc cách mạng Màu xảy ra tại Serbia (2000), Georgia (2003), Ukraine (2005) làm tan rã hàng loạt các chế độ độc tài tại đây vào đầu thế kỷ 21, đã nói lên cùng một ý nghĩa rằng khi quần chúng không còn tuân phục, không còn hợp tác thì quyền lực chính trị của đảng độc tài sẽ bị thách đố. Bốn nguồn lực chính trị nói trên bắt đầu chuyển động khi người dân ý thức rằng họ có quyền hành xử tiếng nói, lá phiếu và ý chí của họ cho những quyền lợi của mình; không phục tùng vô điều kiện các mệnh lệnh độc tài và vô lý của thiểu số lãnh đạo.
Khi người dân rút lại những sự tuân phục cũng như bắt đầu phản kháng các hành vi vô lối của cán bộ, những kẻ độc tài bắt đầu co rút hay phải cắt đứt những nguồn lực chính trị mà họ thường dựa vào để nhân danh quyền lãnh đạo. Khi bị người dân cô lập và từng bước vô hiệu hóa các nguồn lực chính trị của thiểu số lãnh đạo, chế độ độc tài sẽ yếu dần và cuối cùng sẽ tan rã theo một tiến trình tiệm tiến từng bước. Dĩ nhiên, chế độ độc tài rất nhạy cảm về sự bất tuân phục của dân chúng và luôn luôn hoảng sợ về những cuộc chống đối có thể xảy ra. Do đó mà họ rất nhanh tay tung ra những tuyên bố mang tính răn đe hoặc những trừng phạt mạnh mẽ nhắm vào những người bất phục tùng, đình công, biểu tình chống lại họ.
Tuy nhiên sự việc không phải đến đó là hết. Sự trấn áp, ngay cả bằng bạo lực không phải luôn luôn làm người dân trở lại tình trạng tuân phục và hợp tác với chế độ như trước mà ngược lại nó dẫn đến tình trạng giằng co và đối đầu từng sự việc giữa người dân và chế độ. Nếu người dân được hướng dẫn để chịu đựng các biện pháp trấn áp và nhất là tiếp tục duy trì lập trường bất hợp tác, bất tuân phục các mệnh lệnh của chế độ trong một khoảng thời gian đủ dài để đọ sức, thì sau đó, các chế độ độc tài sẽ phải tìm biện pháp tháo chạy bằng những chiêu bài đối thoại, hội nghị bàn tròn để mua thời gian. Theo kinh nghiệm của Đông Âu, một khi phong trào quần chúng vượt qua giai đoạn bị trấn áp gay gắt, người dân sẽ không còn biết sợ nữa và đa số sẽ tự động tham gia các cuộc biểu tình bao vây chính quyền độc tài cho đến khi chế độ này tan rã.
Đó là hình ảnh xuống đường từ lúc đầu rời rạc, thưa thớt vài ba trăm người của những ngày mà Công nhân Ba Lan khởi sự đòi quyền thành lập Công Đoàn Solidarnosc tại thành phố Gdank, đến hình ảnh xuống đường của hàng trăm ngàn công nhân tại các đô thị lớn làm tắc nghẽn mọi sinh hoạt trên toàn quốc, và đẩy đảng Cộng sản Ba Lan rơi vào thế lúng túng đối phó. Tuy lúc khởi đầu có bị đàn áp nhiều lần khiến số thương vong lên đến vài chục người; nhưng công nhân Solidarnosc đã chuyển từ thế thủ sang thế công – chấp nhận bị trấn áp để hướng dư luận về phía công nhân đang đấu tranh ôn hòa. Cuối cùng thắng lợi đã về với số đông quần chúng, tạo những biến chuyển ngoạn mục cho Ba Lan vào giữa tháng 6 năm 1989.
Rút từ những biến chuyển của cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu và tại các nước xảy ra cuộc cách mạng Màu vào đầu thế kỷ 21, người ta đã rút ra ba yếu tố quan trọng nhất để xác định mức độ một chính quyền đang kiểm soát hay đang mất khả năng kiểm soát của họ:
Thứ nhất là sự mong muốn của quần chúng trong việc giới hạn quyền lực cai trị của chính quyền (so với sự mong muốn ngược lại của chế độ)
Thứ hai là sức mạnh của những tổ chức độc lập và những định chế xã hội của người dân lập ra (so với sức mạnh ngược lại của chế độ ) trong việc cùng nhau biểu hiện sự bất phục tùng, bất hợp tác hay phản kháng lại các mệnh lệnh của chính quyền một cách công khai và ôn hòa.
Thứ ba là khả năng của quần chúng (so với khả năng ngược lại của chế độ) trong việc rút lại sự hỗ trợ, sự chấp thuận dành cho chế độ.
Đối chiếu với những yếu tố nói trên vào khả năng đứng dậy của những phong trào quần chúng tại Việt Nam hiện nay – tuy chưa có những chỉ dấu rõ rệt của một phong trào quần chúng xuất hiện như tại các quốc gia Đông Âu vào những năm 1988, 1989 – nhưng bốn cuộc đấu tranh mang tính thách đố quyền lực chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam xảy ra trong năm 2007 cho phép chúng ta nhận diện rằng người dân Việt Nam đã bước từ thời kỳ tuân phục vì bị trấn áp sang giai đoạn bất phục và phản kháng lại chính quyền độc tài:
Điểm qua những cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, thanh niên sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ và giáo dân Công giáo trong năm 2007, chúng ta thấy là các thành phần dân chúng đã nhập cuộc, công khai bày tỏ sự bất mãn của chính họ một cách rất ôn hòa, không bạo động nhưng vô cùng quyết liệt. Điều này cho thấy là Cộng sản Việt Nam đang bị tứ bề thọ địch và đang lúng túng đối phó trước sự xuất hiện của những phong trào đấu tranh công nhân, dân oan, thanh niên sinh viên, văn nghệ sĩ… Cục diện chính trị tại Việt Nam sẽ thay đổi và biến chuyển mạnh khi các thành phần quần chúng bao gồm công nhân, nông dân, sinh viên, giáo dân tiến đến sự liên đới và hợp tác, để tạo thế đấu tranh liên hoàn giữa các lực lượng, tạo sức ép sinh tử lên chế độ Hà Nội như Đông Âu. Tiến trình này diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào khả năng điều hướng của các phong trào quần chúng hiện nay tại Việt Nam.
Lý Thái Hùng
31 Tháng Giêng, 2008