1. Dẫn Nhập
Theo số liệu trong nước thì tính đến mùa hè năm 2004, số sinh viên Việt Nam đang du học tại khoảng 30 quốc gia lên đến gần 40 ngàn người, qua ba diện khác nhau. Thứ nhất là những người ở dạng đi tu nghiệp, thực tập do sự hợp tác giữa các trường đại học Việt Nam với các trung tâm nghiên cứu quốc tế. Thứ hai là những người ở dạng nghiên cứu hậu đại học do một số trường đại học hoặc do một số quốc gia tiên tiến cấp học bổng qua những chương trình hỗ trợ giáo dục cho Việt Nam. Thứ ba là những người đi học tại các trường đại học do nhận được học bổng của chính phủ nước ngoài, của chính quyền Hà Nội hoặc do tự túc của gia đình. Trong ba thành phần này, dạng thứ ba là đông nhất và cũng là lứa tuổi trong sáng nhất vì là tuổi trẻ, mong muốn xây dựng tương lai vững chắc cho mình và ít nhiều mang hoài bão góp phần xây dựng xã hội, đất nước.
Tháng 8 vừa qua, Bộ Giáo Dục – Đào Tạo của Cộng sản Việt Nam đã ban hành một chỉ thị là nếu những du học sinh nào không chịu về nước sau khi hoàn tất học trình thì sẽ phải hoàn lại tất cả những khoản tiền giúp đỡ của chính quyền trong thời gian du học. Sự kiện này cho thấy là số người thành tài sau khi du học trở về nước quá ít khiến cho Hà Nội đã phải tung ra biện pháp “răn đe” nhưng rồi cũng sẽ không giải quyết được vấn đề, vì ba lý do sau đây:
Nhưng lý do căn bản nhất làm cho đa số du học sinh Việt Nam không muốn trở về là vì họ nhìn thấy đời sống quá chênh lệch và môi trường làm việc không phù hợp với những gì họ được học hỏi và hướng dẫn tại môi trường tự do. Đương nhiên cũng có một số du học sinh trở về nước, nhưng thành phần này rất ít và đa số là những con em cán bộ đã được cất nhắc vào những trách vụ đã được dành sẵn. Vì biết là du học sinh sẽ không về nước sau khi thành tài, nên Hà Nội muốn tiếp tục kiểm soát thành phần này – qua nhu cầu triển hạn hộ chiếu do họ cấp hàng năm cho sinh viên – để tìm cách chiêu dụ, lôi kéo thành phần du sinh luôn luôn đi bên cạnh các sứ quán. Để làm điều này, đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện một thủ đoạn khá thâm độc. Đó là:
1/Tuyên truyền và gieo vào đầu các du sinh Việt Nam một hình ảnh cộng đồng hải ngoại quá khích, cực đoan để từ đó làm cho các du sinh e ngại và không những không dám tiếp xúc với cộng đồng mà còn có những thành kiến xấu về các nỗ lực đấu tranh của cộng đồng người Việt trong 30 năm vừa qua.
2/ Dùng sự kiểm soát hộ chiếu để ép buộc các du học sinh phải liên lạc và tham gia vào những nhóm, hội do sứ quán lập ra ở từng địa phương để qua đó theo dõi và kiểm soát các hoạt động của sinh viên. Những ai bị nghi ngờ là tiếp xúc với cộng đồng hoặc giao tiếp với sinh viên Việt Nam không thuộc diện du học liền bị khiển trách và bị hăm dọa rút hộ chiếu.
Những thủ đoạn của Hà Nội nói trên cùng với sự rụt rè của du học sinh tại môi trường quá mới ở hải ngoại, đa số các du sinh sống co cụm và không dám trao đổi hay mở rộng sự tiếp xúc với cộng đồng hải ngoại. Đây là điều đáng buồn vì nếu mà họ không bị đầu độc và đến với cộng đồng Việt Nam một cách cởi mở và thoải mái thì sẽ góp phần không nhỏ để tạo những xoay chuyển tốt đẹp cho đất nước cho bây giờ và về sau. Vấn đề là sau khi nhìn rõ bản chất của vấn đề du học sinh Việt Nam, chúng ta cần có một cái nhìn đúng đắn để có một sự quan tâm hơn vào thành phần này vì nếu không, họ sẽ mãi mãi đi song song với khối người Việt tỵ nạn trong cuộc sống lưu vong hiện nay.
2. Những Cái Nhìn Cần Có
Tuy rời khỏi đất nước Việt Nam trong những hoàn cảnh khác nhau, mỗi du học sinh Việt Nam sau khi đến sống và học tập tại môi trường hải ngoại, đều có chung một tâm tư như người tỵ nạn cộng sản là thấy Việt Nam quá nghèo và quá lạc hậu. Ai ai cũng muốn làm một cái gì đó cho Việt Nam để sớm thoát ra khỏi hoàn cảnh trì trệ này. Đương nhiên, do nhiều năm sống trong bưng bít thông tin và tuyên truyền một chiều của đảng Cộng sản, đa số du học sinh có cái nhìn không giống như cái nhìn của người Việt tỵ nạn về chế độ Hà Nội và cách giải quyết bài toán Việt Nam. Nhưng nếu có dịp thảo luận và trao đổi thì đa số du học sinh đều nhìn rõ vấn đề căn cốt rằng chính sự độc tài của đảng Cộng sản Việt Nam là nguồn gốc của những trì trệ hiện nay trên đất nước Việt Nam. Tuy họ không dám nói ra vì những ám ảnh của sự theo dõi, của thói quen chịu đựng, nhưng đa số đều có những suy nghĩ rất thoáng và không hài lòng với tình cảnh của đất nước Việt Nam hiện nay. Ngoại trừ một thiểu số là con cháu cán bộ đảng viên cao cấp hay những thanh niên được chế độ ưu đãi để làm ’cảnh báo viên’ cho sứ quán trong hàng ngũ du học sinh có những thái độ bênh vực đảng Cộng sản, phê phán sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, còn đa số du học sinh đều mong muốn đến gần với cộng đồng để tìm đến một thứ tình tự quê hương mới, khác với cái môi trường mà họ đã sống ở trong nước. Trong tinh thần đó, chúng ta cần phải có một số cái nhìn như sau:
Ý thức được như vậy, chúng ta cần tìm cách tiếp cận với các anh em du sinh, tạo được sự cảm thông để hai bên có thể tin tưởng nhau, giúp đỡ nhau, đến với nhau bằng tình đồng hương đúng ý nghĩa nhất, để anh em du sinh có được một điểm tựa tinh thần mà theo đuổi việc học trong những ngày tháng cô đơn xa xứ. Làm được điều này sẽ hóa giải được hình ảnh sai lạc của cộng đồng người Việt hải ngoại mà đảng và nhà nước CSVN cố tình tô vẽ để ngăn cản sự tiếp cận của chúng ta.
3. Những Hỗ Trợ Cần Thiết
Khi chúng ta nhận định được một cách chính xác và tích cực về mối tương quan giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và các du sinh, đặc biệt là để ngăn chận âm mưu dùng thành phần du học sinh Việt Nam để gầy dựng cộng đồng người Việt thứ hai nhằm tạo thế đối lực với cộng đồng người Việt tỵ nạn, chúng ta cần bắt tay vào việc hỗ trợ du học sinh từ những việc làm nhỏ nhất cho đến những sinh hoạt to lớn khác trong cộng đồng. Sau đây là những đề nghị cụ thể :
4. Kết Luận
Con số du học sinh Việt Nam sẽ ngày một gia tăng do những nhu cầu mở cửa nhà nước Cộng sản Việt Nam. Hà Nội chờ đợi là những du học sinh này sẽ trở về làm việc sau khi tốt nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy là số người về sẽ rất ít – không phải vì họ chống đối lại chế độ – mà chỉ vì khả năng của họ không được phát triển trong một chế độ độc tài. Đối với chúng ta, thành phần du học sinh là khối trí tuệ cần thiết để cùng với lực lượng chất xám tại hải ngoại góp phần xoay chuyển tình hình đất nước, đồng thời cũng là chất keo nối kết giữa hai thế hệ trẻ ở trong và ngoài nước để cùng xây dựng và canh tân Việt Nam.
Nhìn như vậy, chúng ta hãy tận dụng những ưu điểm của Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại để xây dựng tập thể du học sinh Việt Nam trở thành nhịp cầu thông cảm giữa trong và ngoài nước – cho bây giờ và cho mai sau – để hải ngoại và quốc nội cùng nắm tay nhau tiến hành một cách hữu hiệu công cuộc canh tân đất nước.
Đoàn Hùng