Luật sư Cù Huy Hà Vũ và Tòa án Nhân dân Hà Nội

Nguyễn Thanh Văn

Sau hơn một tuần lễ nhận đơn của Ls. Cù Huy Hà Vũ khởi kiện thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng. Ngày 19.6 Chánh án Tòa án nhân dân Hà Nội là ông Nguyễn Sơn đã thông báo chính thức bằng Quyết Định 978 không thụ lý và trả lại đơn kiện của luật sư Cù Huy Hà Vũ, đồng thời nhấn mạnh đây là lần quyết định cuối cùng. Lập tức sau đó hàng loạt báo chí của nhà nước đăng tải tin này với tựa đề lớn: “Toà án Nhân dân Hà Nội đã bác đơn khởi kiện thủ tướng của ông Cù Huy Hà Vũ”.

Hiển nhiên, cả ngàn tờ báo, đài phát thanh, đài phát hình đó chẳng ai dám đến phỏng vấn nguyên đơn. Nên chỉ khi trả lời phỏng vấn của các cơ quan truyền thông quốc tế “ngoài luồng” luật sư Cù Huy Hà Vũ mới có thể chỉ ra rằng báo chí của Đảng đã ngộ nhận giữa việc “bác đơn” và việc “không thụ lý đơn”. Đây là 2 sự việc khác nhau và có hệ quả khác nhau. Nhưng cũng có thể đây là cách viết cố ý để gieo ấn tượng rằng đơn khởi kiện của luật sư Cù Huy Hà Vũ là sai pháp luật hoặc có vấn đề.

Ông giải thích tiếp rằng tòa án chỉ có thể bác đơn một khi đã nhận thụ lý vụ kiện, rồi đem ra xét xử, và trong phiên tòa đó Hội đồng xét xử mới có thể bác đơn một khi không chấp nhận những lý do nêu ra của nguyên đơn. Trong trường hợp này Tòa Án Hà Nội nêu lý do trả lại đơn khởi kiện là vì Tòa Án Hà Nội không đủ thẩm quyền thụ lý và xét xử vụ việc, căn cứ vào điểm Đ, khoản 1 điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ có thể thụ lý và thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính từ cấp Bộ và cấp tương đương trở xuống mà thôi.

Nhưng nếu không có thẩm quyền để thụ lý, vẫn theo luật sư Cù Huy Hà Vũ, thì tòa phải trả toàn bộ hồ sơ lại cho nguyên đơn hoặc chuyển toàn bộ hồ sơ lên toà nào có thẩm quyền thụ lý. Cả 2 điều này đều đã không xảy ra. Mặc dù Quyết định 978 của Tòa án Nhân dân Hà Nội ghi rõ là trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, nhưng họ chỉ trao cho Ls. Cù Huy Hà Vũ tờ Quyết Định, còn hồ sơ và đơn khởi kiện đều không trả lại. Tòa Án Hà Nội cũng không làm bổn phận tối thiểu của họ là cho nguyên đơn biết tòa án nào có thể thụ lý đơn khởi kiện thủ tướng. Vì luật pháp CHXHCNVN ghi rõ là dân có quyền kiện những quyết định hành chính trái phép, thế thì chắc chắn phải có một loại toà nào đó có thể thụ lý. Và trong trường hợp này, quyết định cho khai thác bô-xít tại Tây Nguyên do thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng ký thì ông ta phải chịu trách nhiệm ra hầu tòa là hoàn toàn đúng theo luật định.

Lý do thứ hai của quyết định mà ông Nguyễn Sơn, Chánh án Tòa Án Hà Nội nêu ra để không thụ lý đơn kiện của Ls. Cù Huy Hà Vũ là: “Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 1/11/2007 ban hành là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phù hợp với các văn bản pháp luật hiện hành”. Tại điểm này, chính ông chánh án Nguyễn Sơn đã để lộ sự thiếu hiểu biết luật pháp trầm trọng. Ls. Cù Huy Hà Vũ vạch ra một điều hiển nhiên, đó là nếu đã nói không có thẩm quyền thụ lý hồ sơ thì làm gì có chuyện duyệt xét các lý lẽ từ cả hai phía, để rồi đi đến kết luận nguyên đơn hay bị đơn đúng. Do đó tuyên bố của ông Nguyễn Sơn không chỉ vô giá trị mà còn cho thấy não trạng thiếu hiểu biết về vai trò chánh án trong cơ chế chính quyền của một nước. Và nếu một chánh án ngay tại thủ đô Hà Nội, trước một vụ kiện mang tầm vóc lớn, mà còn có thái độ bừa bãi và thiếu học như vậy, thì các chánh án khác trên cả nước và hệ thống luật phát CHXHCNVN nói chung, còn tệ tới mức nào.

Lý do thứ ba của quyết định 978 mà Tòa Án Hà Nội nêu ra là “Kế hoạch quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán của đảng và nhà nước CSVN được khẳng định từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng CSVN… nên Quyết định số 167 được ban hành chỉ để triển khai thực hiện chủ trương trên…” Ls. Cù Huy Hà Vũ, một lần nữa, vạch ra kiểu hành xử sai chức năng của Tòa Án Hà Nội. Việc tuyên truyền cho chủ trương của đảng và nhà nước CSVN là chức năng của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, của bộ Truyền Thông Thông Tin, của tổ chức ngoại vi mang tên Mặt trận Tổ quốc, và các cấp chính quyền chứ không phải của tòa án. Dù chỉ là loại độc lập biểu kiến giữa tư pháp và hành pháp dưới chế độ đảng toàn trị, thì ông Nguyễn Sơn vẫn phải đóng cho đúng vai kịch đã được giao phó và đáng lẽ phải tránh loại phát biểu quá “tụt hậu” đó trước thế giới.

Ngoài ra Ls. Cù Huy Hà Vũ cho biết ông có thể kiện ông chánh án Nguyễn Sơn vì đã viết rằng Quyết định 987 là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đây là một khẳng định trái với pháp luật, hoàn toàn tự ý bịa đặt để hù dọa những ai không biết luật. Bởi trong toàn bộ pháp luật hiện hành không hề có quy định nào nói là quyết định giải quyết khiếu nại nào là quyết định cuối cùng, dù đó là của tòa án hay của các cơ quan hành pháp. Câu khẳng định đó lại càng vô lý khi ông Nguyễn Sơn nói Toà Án Hà Nội không có thẩm quyền thụ lý. Điều đó có nghĩa là phải có tòa cao hơn có thẩm quyền. Thế thì với tư cách gì chánh án Nguyễn Sơn dám bảo đây là quyết định cuối cùng. Luật sư Cù Huy Hà Vũ cho biết, luật pháp của nhà nước CSVN không cấm người dân kiện thủ tướng nên ông sẽ tiếp tục kiện ông Nguyễn Tấn Dũng lên dần đến Tòa án Nhân dân Tối cao. Câu phán của chánh án Nguyễn Sơn một lần nữa vô giá trị.

Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng có những điều khoản quy định quyền của người dân như hầu hết các nước tự do trên thế giới. Tuy nhiên cho tới hôm nay luật pháp phần lớn vẫn nằm yên trong sách vở. Hầu hết dân chúng không được biết đến các quyền của mình. Cùng lúc chính quyền các cấp từ cao đến thấp thường đóng luôn vai chánh án kiêm người soạn luật. Hậu quả là dân chúng vẫn thường nghe câu nạt nộ của các quan chức chế độ: “Luật là Tao, Tao là Luật!”

Hơn ai hết, giới luật gia Việt Nam biết rất rõ tình trạng này và cũng biết rõ đảng và nhà nước đang vi phạm trầm trọng các Công Ước về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà họ đã cam kết tôn trọng. Như tại các quốc gia đang phát triển khác – Pakistan, Malaysia, Philippines, Thái Lan, – hàng ngũ luật gia là một trong những lực lượng chính yếu tạo những bước khai phá về bảo vệ nhân quyền và đề cao nhân phẩm trong xã hội. Các luật sư thường khôn khéo nương theo các ràng buộc buôn bán, các ký kết đa diện với thế giới để từng bước đẩy nhà cầm quyền phải hành xử theo pháp luật. Và nhất là họ đồng loạt lên tiếng mỗi khi có đồng nghiệp bị chế độ trấn áp. Chính sự lên tiếng chung đông đảo đã khiến chế độ bó tay, không dám trừng phạt.

Trong thời gian qua càng lúc càng có thêm những tiếng nói đáng kính phục từ giới luật gia Việt Nam — Nguyễn Trung, Lê Chí Quang, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, v.v… Đây không chỉ là những người đi đầu trong những năm tháng khó khăn của đất nước mà còn xứng đáng là những lãnh tụ tương lai của dân tộc.