Muốn Chống Tham Nhũng Phải Có Tự Do Báo Chí

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

‘‘Muốn chống tham nhũng phải có tự do báo chí’’, đó là lời phát biểu của bà Đại sứ Thụy Điển Anna Lindstedt tại Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) được tổ chức tại Nha Trang vào trung tuần tháng 6 năm 2006. Bà Anna Lindsted đã tỏ thái độ bất mãn khi Cộng sản Việt Nam ra lệnh cấm không cho các ký giả Việt Nam lẫn ngoại quốc vào thu tin các cuộc thảo luận về việc chống tham nhũng tại hội nghị, trừ phiên khai mạc và bế mạc. Lẽ ra những ý kiến của các thành viên tham dự hội nghị phải được loan tải rộng rãi trên báo chí, nhưng Hà Nội lại ra lệnh cấm không cho các nhà báo có mặt trong hội trường. Trong lúc bà Anna phát biểu thì ông Phạm Gia Khiêm, phó thủ tướng Việt cộng có mặt trong Hội nghị đã làm bộ ngạc nhiên rằng y không hề biết có chuyện các ký giả không được vào hội trường thu tin các buổi thảo luận, rồi hứa sẽ xét lại vấn đề này. Sau đó ông Khiêm lên diễn đàn xác nhận lại vài điều cũ rích như chống tham nhũng là yêu cầu cấp bách của chính phủ hiện nay; không có vùng cấm trong chống tham nhũng.

Trong Hội nghị tư vấn, bà Anna còn phát biểu rằng: Tham nhũng gây nhiều tác hại đến người nghèo một cách không đồng đều, tăng chi phí hoạt động kinh doanh và làm giảm hiệu quả các hỗ trợ ODA. Tự do báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát các cơ quan chính phủ… Tuy nhiên lời phát biểu này đầu tiên chỉ đọc được trên trang web của tòa đại sứ Thụy Điển tại Hà Nội và một phần trong Thông cáo báo chí của Ngân hàng Thế giới (WB) và sau đó có tờ Lao Động trích đăng. Ngoài ra Giám đốc WB tại Hà Nội là ông Klaus Rohland hứa với các báo chí sẽ thảo luận với các cơ quan chính phủ để các nhà báo được tham dự trong các hội nghị CG tới. Từ sự việc kể trên nên Ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ chính trị kiêm Bộ trưởng Văn hóa Thông tin của nhà cầm quyền Hà Nội, trong một cuộc trả lời phỏng vấn vào ngày thứ tư 21 tháng 6 vừa qua đã phân bua với các ký giả rằng: Tôi đang chịu áp lực từ hai phía. Những cơ quan có trách nhiệm xử lý các vụ tiêu cữc do báo chí nêu lên cho rằng chúng tôi đã không nói đầy đủ cho báo chí hiểu tính phức tạp của tình hình, để báo chí đưa tin một chiều, đưa tin không đúng sự thật, gây khó khăn cho quá trình xử lý sau này. Ngược lại, cũng có áp lực từ phía các cơ quan báo chí là tại sao không cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ cho phóng viên.

Khi được hỏi ông đánh giá như thế nào về vai trò cũng như những hạn chế của báo chí trong cuộc chiến chống tiêu cực trong thời gian qua điển hình là vụ PMU 18, thì ông Nghị trả lời rằng: Các nhà báo cần hiểu rằng đấu tranh chống tiêu cực là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, do đó đòi hỏi sự sáng suốt và một ý thức xây dựng rất cao. Khi nói đến điều này, tôi cũng muốn nói rằng bên cạnh đóng góp quan trọng và chủ yếu của báo chí thì trong thông tin chống tiêu cực thời gian qua cũng có khá nhiều vụ việc báo chí thông tin chưa chuẩn xác, đôi khi nặng về một chiều. Ngay trong vụ PMU 18 cũng có những thông tin không chính xác làm cho bức xúc của xã hội tăng lên, dẫn tới hậu quả không mong muốn.

Thêm một câu hỏi khác là thực tế có những vụ việc sau khi xảy ra, các cơ quan liên hệ thường nói là báo chí không tìm đến để kiếm thông tin, nhưng trước đó thì cơ quan này lại không chịu cung cấp thông tin. Tại sao vậy ?. Ông Nghị trả lời rằng về tâm lý chung, các cơ quan có thành tích hay nhận huân chương thì muốn thông báo ngay, nhưng thường họ không muốn đề cập tới yếu kém, khuyết điểm. Mặt khác cũng phải thấy là thông tin về các vấn đề tiêu cực rất phức tạp nên không dễ gì họ thay mặt bộ, ngành phát ngôn một cách cặn kẽ, chính xác. Báo chí có quyền yêu cầu cung cấp tin tức, nhưng trong trường hợp người ta không nói thì báo chí vẫn có thể tìm nguồn thông tin khác và tự chịu trách nhiệm.

Hai chữ báo chí mà ông Phạm Quang Nghị sử dụng ở đây là chỉ có báo của đảng và nhà nước (vì hiện nay tại Việt nam làm gì có báo tư nhân) mà còn bị nhiều rào cản như thế thì ta thấy là sự hoạt động độc lập của báo chí không hề có tại Việt Nam. Mục tiêu phát biểu của bà Anna là để nói đến vai trò của một nền báo chí tư nhân, khác với các báo chí của đảng, để thông tin trung thực và không bị gò bó trong một biên chế nào. Cụ thể ra, trong hội nghị các nhà tư vấn lần này, bà Anna muốn cổ võ cho sự hình thành báo tư nhân và đó là phương tiện hữu hiệu góp phần chống tham nhũng tại Việt Nam.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ngày 30 Tháng Tư, người Việt ở hải ngoại gọi là ngày mất nước, ngày quốc hận. Ảnh minh họa: David McNew/Getty Images

Không cần hòa giải, cần đấu tranh!

Bốn mươi chín năm đã đủ lâu để những người có suy nghĩ đều nhận ra sự thật không ai là “bên thắng cuộc,” cả dân tộc là nạn nhân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Gần nửa triệu thanh niên miền Bắc, 280.000 thanh niên miền Nam bỏ mạng, 2 triệu thường dân vô tội chết trong binh lửa – đó là cái giá máu mà dân tộc này đã phải trả cho cái gọi là công cuộc “giải phóng miền Nam.”

Nhà thờ Đức Bà ngay trung tâm Sài Gòn, một thành phố từng được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông. Ảnh minh họa: Chris Jackson/ Getty Images

Tựa vào di sản miền Nam tự do, tôi chọn đứng thẳng

Ba Mươi Tháng Tư, cứ đến gần ngày này là trái tim người miền Nam lại nhói đau. Tôi là một người thế hệ 8x, tuy chưa từng trực tiếp chứng kiến cuộc chiến “nồi da xáo thịt” của đất nước giai đoạn trước 1975, nhưng gia đình tôi, tồn tại hai dòng tư tưởng quốc gia và cộng sản, và ông bà tôi, cậu, dì tôi là những nhân chứng sống cho giai đoạn lịch sử này.

Ảnh chụp khúc đường Tôn Đức Thắng (Q.1, Sài Gòn) trước (hình trái) và sau (phải) khi chặt hạ cây xanh. Ảnh: 24h.com

Có nên chặt cây xanh để xây đường sắt trên không?

Không cần phải nói dài dòng, ích lợi của cây xanh trước tiên là thẩm mỹ, nhưng quan trọng hơn cả là nó giữ cho môi trường trong sạch bằng cách hút khí dioxit carbon và thải ra oxy. Chính vì thế khi đi trong rừng hoặc thậm chí dưới những con đường có hai hàng cây xanh lá thì chúng ta cảm thấy mát mẻ và dễ chịu. Cây xanh vì thế trở thành một phần của hệ sinh thái đô thị. Điều này không phải và không thể nói ngược lại.

Vậy thì chặt bỏ hàng trăm (nếu tính cả hai thành phố Hà Nội và Sàigòn) thì phải nói là hàng ngàn cây để xây metro có phải là lý do hợp lý và chính đáng không?