Những Thuyền Nhân Việt Nam Tại Phi Sau Cùng Đến Mỹ

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
JPEG - 33 kb

Ngày 26 tháng 9 vừa qua một chuyến bay đặc biệt cất cánh từ phi trường quốc tế Akino (Manila) đã đáp xuống phi trường Los Angeles mang theo 229 thuyền nhân tị nạn Việt Nam.

Theo cơ quan Di Trú Quốc Tế (IOM), hiện nay có khoảng gần 2000 thuyền nhân tị nạn Việt Nam còn kẹt lại tại Philippines. Họ là những người tị nạn chưa được một nước thứ ba nào đó chấp nhận cho đi định cư mà cũng không bị trả về Việt Nam. Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc cũng như chính phủ Phi đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi các quốc gia tiên tiến rộng tay đón nhận những người tị nạn này nên vào tháng 4 năm 2004, Hoa Kỳ đã quyết định tái phỏng vấn những thuyền nhân tị nạn còn kẹt lại tại Philippines và 229 thuyền nhân tị nạn Việt Nam đó là toán đầu tiên dược sang Mỹ định cư theo các đợt tái phỏng vấn sau cùng này. Cơ quan IOM còn cho biết thêm rằng ngoại trừ những thuyền nhân tị nạn Việt Nam đã có chồng hoặc vợ là người Phi thì tất cả những người còn lại (khoảng trên 1600 thuyền nhân tị nạn) sẽ được các phái đoàn của sở di trú Mỹ (INS) tái phỏng vấn với rất nhiều hy vọng sẽ được sang Hoa Kỳ định cư nội trong vòng sáu tháng tới.

Kể từ khi miền Nam Việt Nam bị lọt vào tay cộng sản, người dân Việt Nam đã tìm đường chạy trốn ra nước ngoài bằng đủ mọi phương tiện trong đó ghe, tàu được sử dụng nhiều nhất. Từ đó danh từ “Thuyền nhân tị nạn” được nhắc đến như là một thảm trạng của nhân loại. Lòng nhân đạo của thế giới cũng có giới hạn, trong khi đó làn sóng thuyền nhân tị nạn này vẫn kéo dài chưa hề dứt. Năm 1989, Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị quốc tế về vấn đề Tị Nạn Đông Dương tại Geneve. Theo quyết định của hội nghị này thì kể từ đây những người tị nạn nào không bị đàn áp về chính trị thì gọi là người “Tị nạn kinh tế”, biện pháp được đưa ra là kêu gọi họ tự động hồi hương, nếu không sẽ bị trả về nước theo hình thức cưỡng chế. Sau hội nghị này các trại tị nạn tại Phi, Thái, Mã Lai, Singapore, Nam Dương và Hồng Kông lần lượt đóng cửa, và đến năm 1996 thì hoàn toàn không còn một trại tị nạn Đông Dương nào nữa dưới sự quản lý của Cao ủy tị nạn LHQ hoạt động.

Mặc dù các trại tị nạn tại Philippines đã đóng cửa nhưng Giáo hội Công Giáo Phi đã đứng ra can thiệp và bảo trợ để yêu cầu chính phủ không áp dụng chính sách cưỡng bách hồi hương và cho phép những thuyền nhân tị nạn Việt Nam được quyền lưu trú vô thời hạn tại Philippines. Chính phủ Phi đã chấp nhận lời yêu cầu đó một phần vì tiếng nói của Giáo hội Công Giáo Phi rất mạnh và một phần cũng vì không muốn dư luận thế giới lên án hành động cưỡng chế hồi hương một cách vô nhân đạo đó. Nhờ thế mà số phận các thuyền nhân Việt Nam tại Philippines mới có được cơ hội sang định cư tại Hoa Kỳ như ngày hôm nay, mặc dù trong số đó có rất nhiều người phải đợi chờ đến hơn 16 năm trời.

Nhiều thánh chức của Giáo hội Công giáo Phi đã thật sự vui mừng trước tin này và chúc phúc cho tất cả các thuyền nhân tị nạn Việt Nam tại Phi, các Ngài cũng đã có đôi lời nhắn nhủ với các thuyền nhân tị nạn Việt Nam tại Phi như sau: Không phải sang định cư tại Hoa Kỳ là mọi chuyện sẽ tốt đẹp, chắc chắn các bạn sẽ còn gặp nhiều thử thách khác trong cuộc sống mới tại Hoa Kỳ. Nếu nỗ lực thì không khó khăn nào mà không vượt qua được. Các bạn phải cố gắng vì đó là sự lựa chọn của chính các bạn và chúng tôi tin chắc là các bạn sẽ vượt qua mọi chuyện. Xin chúa ban lành cho các bạn Thuyền Nhân Tị Nạn Việt Nam.

Chính quyền cộng sản Việt Nam không có tư cách lên tiếng liên quan đến vấn đề này, nhưng một số quan chức cao cấp của chính quyền Hà Nội đã có những lời phát biểu như sau: Bây giờ mà sang Mỹ định cư làm gì, quá trễ, chỉ chuốc lấy mọi sự khó khăn. Tốt nhất là nên trở về nước làm lại cuộc đời. Tuy nhiên các thuyền nhân Việt Nam tại Phi đã phản bác lại và tuyên bố rằng: Thà chết còn hơn phải trở về sống dưới chế độ cộng sản độc tài tại Việt Nam.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Đảng

Để chống lại sự lăng loàn, độc đoán của đảng, ở những nước đa đảng (như Mỹ, Pháp, Hàn, Nhật, Sing chẳng hạn), họ cấm tiệt việc sử dụng ngân sách phục vụ cho riêng đảng nào đó. Tất cả đều phải tự lo, kể cả chi phí cho mọi hoạt động lớn nhỏ, từ chiếc ghế ngồi họp tới cái trụ sở mà đảng sử dụng. Tham lậm vào tiền thuế của dân, nó sẽ tự kết liễu sự nghiệp bởi không có dân nào bầu cho thứ đảng bòn rút mồ hôi nước mắt mình làm lãnh đạo mình.

Ảnh chụp màn hình VOA

Nhóm trí thức Việt Nam đề nghị lãnh đạo chớ ‘nói suông,’ nên chân thành hoà giải

GS. TS. Nguyễn Đình Cống, người đã công khai từ bỏ đảng Cộng sản vào năm 2016 và là một thành viên ký tên trong bản kiến nghị, nói với VOA:

“Thực ra, đây là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhân dân Việt Nam hy sinh xương máu của cả hai bên để mang lại một chiến thắng cho đảng Cộng sản. Còn đối với dân tộc thì chẳng được gì cả. Nó chỉ mang lại được sự thống nhất về mặt lãnh thổ thôi. Còn sau chiến thắng ấy, không giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc. Đảng thì được. Đảng được vì đạt được chính quyền toàn quốc. Còn dân tộc thì việc hoà giải dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được.”

Ngày 30 Tháng Tư, người Việt ở hải ngoại gọi là ngày mất nước, ngày quốc hận. Ảnh minh họa: David McNew/Getty Images

Không cần hòa giải, cần đấu tranh!

Bốn mươi chín năm đã đủ lâu để những người có suy nghĩ đều nhận ra sự thật không ai là “bên thắng cuộc,” cả dân tộc là nạn nhân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Gần nửa triệu thanh niên miền Bắc, 280.000 thanh niên miền Nam bỏ mạng, 2 triệu thường dân vô tội chết trong binh lửa – đó là cái giá máu mà dân tộc này đã phải trả cho cái gọi là công cuộc “giải phóng miền Nam.”

Nhà thờ Đức Bà ngay trung tâm Sài Gòn, một thành phố từng được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông. Ảnh minh họa: Chris Jackson/ Getty Images

Tựa vào di sản miền Nam tự do, tôi chọn đứng thẳng

Ba Mươi Tháng Tư, cứ đến gần ngày này là trái tim người miền Nam lại nhói đau. Tôi là một người thế hệ 8x, tuy chưa từng trực tiếp chứng kiến cuộc chiến “nồi da xáo thịt” của đất nước giai đoạn trước 1975, nhưng gia đình tôi, tồn tại hai dòng tư tưởng quốc gia và cộng sản, và ông bà tôi, cậu, dì tôi là những nhân chứng sống cho giai đoạn lịch sử này.