Phản Hồi Cuộc Nói Chuyện Của Nguyễn Văn Hưởng Thứ Trưởng Bộ Công An Nguyễn Văn Hưởng

Hoàng Trung Việt

Kính gởi ông Hưởng

Theo dõi báo chí tôi được biết những lời phát biểu của ông với phái đoàn Ủy ban Tự Do Tôn Giáo Quốc tế của chính phủ Hoa Kỳ tại Hà nội. Với những lời phát biểu không trung thực của ông, là công dân Việt Nam tôi cần phải thẳng thắn lên tiếng.

Luật sư Lê Thị Công Nhân.

Ông nói rằng: Việt Nam chưa bao giờ trù dập, bắt bớ và giam cầm những người bất đồng chính kiến, trường hợp của Lê thị Công Nhân và Nguyễn văn Đài là lôi kéo người khác để xách động chống lại nhà nước Việt Nam. Câu nói này của ông đã hoàn toàn bóp méo sự thật bởi vì, 2 luật sư Đài và Công Nhân là một trong những người đã can đảm bày tỏ chính kiến của mình trước những sai lầm mà chính quyền cộng sản VN đã và đang thực hiện trên quê hương đất nước.

Luật sư Nguyễn Văn Đài.

Hai luật sư Đài và Công Nhân đã hành xử quyền của một công dân đúng với điều 69 HP/VN cũng như phù hợp với Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của LHQ và các công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị mà chính quyền CSVN của ông đã tình nguyện tham gia và cam kết thi hành. LS Đài và Công Nhân cũng như những người công dân khác chỉ mạnh dạn đấu tranh một cách ôn hoà để chính quyền CS của ông nhìn thấy được cái sai mà thay đổi tư duy, họ không chủ trương bạo động hoặc gây rối hay tuyên truyền chống nhà nước gì cả, họ chỉ chống lại những lối hành xử độc tài, độc đoán của ĐCSVN, đây là một sự thật quá rõ ràng.

Ông đừng có đồng hóa cái đảng CS của ông với nhà nước để rồi chụp mũ người ta, điều 88 BL/HS mà chính quyền CSVN dùng để xử các thành phần bất đồng chính kiến là vi hiến không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân VN. Đất nước là của chung, còn ĐCSVN chỉ là một thành phần trong đất nước mà thôi. Ðiều 4 HP quy định ĐCSVN lãnh đạo đất nước lâu dài cũng đi ngược lại ý muốn của toàn dân, chính ông Võ văn Kiệt (cựu thủ tướng CS) cũng có nói: có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau, đất nước Việt Nam không thuộc của riêng ai…, điều này chứng tỏ rằng điều 4 HP cần phải được huỷ bỏ.

Không thể so sánh sự khác nhau về văn hóa để quan niệm nhân quyền cũng phải khác nhau như lời tuyên bố của thủ tướng Nguyễn tấn Dũng được. Nhân quyền tức là quyền làm người, đó là quy luật tất nhiên dành cho loài người trên thế giới, nó không có ranh giới và nó là tiền đề cho mọi chính quyền trong mọi quốc gia bắt buộc họ phải tôn trọng. Không thể viện dẫn điều kiện văn hoá khác nhau để đồng hoá vào nhân quyền phải khác nhau cho mỗi nước vì văn hoá là biểu tượng của một nền học vấn, nếp sinh hoạt về tâm linh và phong tục tập quán. Do đó mỗi nước mỗi nơi đều có nền văn hoá riêng nhưng nhân quyền thì không phải vậy.

Nhân quyền được hiểu như là không khí mà mọi người cần phải thở để sống, chính vì vậy cho nên LHQ (cơ quan điều hành thế giới) đã thông qua Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị để cho các quốc gia thành viên xem đó mà thi hành. Việt Nam là thành viên của LHQ đã từng ký kết tham gia thì không thể nào nói rằng nhân quyền của Việt Nam khác với nhân quyền của Hoa kỳ hay của các nước được. Việt Nam có quyền phê phán những nước vi phạm nhân quyền thì các nước cũng có quyền phê phán sự vi phạm nhân quyền của Việt Nam.

Ông còn nói rằng: GHPGVNTN có lịch sử từ rất lâu, từ thời chiến tranh (tôi không hiểu ông muốn nói từ thời chiến tranh nào, trong khi Phật giáo đã hiện diện trên đất nước Việt Nam hơn hai ngàn năm rồi). Còn về việc ông nói năm 1981 những người đứng đầu GHPGVNTN đã bàn nhau thống nhất giáo hội và kể từ đó thì không còn GHPGVNTN nữa mà họ đã thống nhất vào tổ chức chung rồi.

Sự thật có như vậy không thưa ông? Ông thử nhìn lại coi trước 1975 Phật giáo ở miền Bắc chỉ là bình phong cho sự tuyên truyền của ĐCSVN trước quốc tế, kinh sách không có và chùa chiền hầu như chỉ còn tính cách tượng trưng, các nhà sư tu hành theo sự chỉ đạo của đảng chứ không còn giữ bản sắc riêng theo truyền thống của đạo Phật nữa. Cuộc sống trong chùa không còn cảnh trang nghiêm thanh tịnh mà thay vào đó là những nơi chăn nuôi súc vật để các nhà sư kiếm sống qua ngày, vì vậy cho nên người ta không lạ gì khi thấy các nhà sư ở miền Bắc đa số đều ăn thịt gọi là ăn mặn (việc ăn mặn này khác với việc ăn mặn của phái nguyên thuỷ bên Nam tông của Phật giáo).

Sau ngày 30/04/1975 may mắn thay, Phật giáo miền Nam đã còn giữ được bản sắc độc lập riêng từ đường lối tu hành cho đến việc in ấn kinh sách, cho nên đã cung cấp và giúp đỡ Phật giáo miền Bắc rất nhiều. Tuy nhiên, chính quyền CSVN không ép buộc được GHPGVNTN phải đi theo hướng đi của đảng cho nên năm 1981 ĐCSVN mới chiêu dụ các nhà sư nhẹ dạ ham danh lợi của Phật giáo miền Nam phối hợp với Phật giáo quốc doanh miền Bắc tự động đứng ra thành lập GHPGVN để gọi là thống nhất Phật giáo dưới sự chỉ đạo của ĐCSVN với danh xưng ĐẠO PHÁP-DÂN TỘC-XÃ HỘI CHỦ NGHĨA một xã hội đang bị loài người tiến bộ đào thải.

Từ đó các nhà sư trong GHPGVN được tham gia hoạt động chính trị trong guồng máy của đảng như: ứng cử vào các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, được vào làm uỷ viên của UBMT tổ quốc các cấp…v.v…, còn trong các trường đào tạo tu sĩ như Trung cấp, Cao cấp, Đại học Phật học, ngoài việc học giáo lý Phật đà còn phải học giáo điều Marx-Lenin, và cũng từ đấy GHPGVNTN do Ðức Tăng thống Hòa thượng Thích Huyền Quang và Viện trưởng Viện Hóa Ðạo Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng tất cả các Chư tôn đức của Giáo hội đã bị chính quyền CSVN ngang nhiên trù dập, khống chế và liệt vào tổ chức bất hợp pháp mặc dù trên nguyên tắc cho đến hôm nay vẫn chưa có quyết định khai trừ.

Các chùa chiền và tài sản của GHPGVNTN đa số đều bị tịch thu, các Tăng ni của Giáo hội hầu như ai cũng phải bị tù đầy, có người hàng chục năm cho đến chung thân như trường hợp Thượng toạ Thích Thiện Minh, Thích Tuệ Sĩ, Thích Thiện Siêu..v.v… Riêng nhị vị Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ sau khi ở tù xong cho đến nay vẫn còn bị quản thúc tại chùa một cách thật là nghiệt ngã. Sự thật quá rõ ràng như thế mà ông lại dám nói với phái đoàn UBTGQT Hoa kỳ là: “Chúng tôi chỉ tuyên bố GHPGVNTN là không hợp pháp, mặc dù vậy các ông Thích huyền Quang và Thích quảng Độ vẫn hoạt động tôn giáo bình thường”.

Hòa Thượng Thích Quảng Độ thăm hỏi dân oan khiếu kiện.

Hiện tại Thiền viện Thanh Minh nơi tu hành của Hoà thượng Thích Quảng Độ đã và đang bị công an mặc thường phục canh gác đêm ngày không cho ai đến hành lễ kể cả khách ngoại quốc, điển hình là nhân vật đại diện cho sáng hội Rafto của Na Uy đến trao giải thưởng cho Hoà thượng cũng bị công an bắt làm việc, Hoà thượng cũng không được đi ra Bình Định để thăm hỏi và vấn an Đức Tăng thống Thích Huyền Quang trong tinh thần đạo vị. Hàng mấy chục năm nay GHPGVNTN cũng không được tổ chức đại hội và tự do làm lễ trong các ngày lễ như Phật Đản… v.v… như thế mà ông cho là GHPGVNTN vẫn hoạt động bình thường sao? Khi nói câu này cá nhân ông có tự thẹn với lương tâm của mình không?

Trong thời gian vừa qua, nhìn thấy cảnh khổ sở của những người dân oan khắp nơi trên đất nước đi khiếu kiện, Hoà thượng Viện trưởng vì bị chính quyền CSVN quản thúc cho nên ngài mới chỉ thị cho Thượng toạ Thích Không Tánh đem tiền quyên góp của đồng bào hải ngoại ra Hà Nội cứu tế dân oan đúng theo tinh thần từ bi của đạo Phật, công an dưới quyền chỉ huy của ông chẳng những không cho mà còn huy động cả hệ thống truyền thanh truyền hình cùng báo chí đồng loạt viết bài vu khống, đả phá và kết án là cấu kết với các phần tử phản động nước ngoài để xúi giục dân oan biểu tình chống phá nhà nước Việt Nam với mục đích bôi nhọ GHPGVNTN, đặc biệt triệt hạ cá nhân Hoà thượng Thích Quảng Độ, một nhà sư đầy lòng nhân ái và khả kính của hàng phật tử Việt Nam trong và ngoài nước.

Thử hỏi dân oan là ai, đa số họ là những người đã có công phục vụ cho ĐCSVN được như ngày hôm nay và có người đã từng đi khiếu kiện hàng chục năm rồi, tại sao ông không tự hỏi lý do nào đã tạo ra tập thể dân oan phải dãi nắng dầm sương đi khiếu kiện? Việc làm này của chính quyền CSVN đã vi phạm trắng trợn vào điều 72 HP/VN quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án….v.v….

Kính thưa ông, trong khi các nhà lãnh đạo trong chính quyền nói ra những lời nói thật là hay như:

Chủ tịch Nguyễn minh Triết phát biểu tại Mỹ trong chuyến công du tháng 6/2007 vừa qua “Chúng ta sinh ra làm người là để thương yêu nhau”.

Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng trả lời trực tuyến “Tôi yêu nhất thích nhất là sự trung thực, tôi ghét nhất giận nhất là sự giả dối”.

Nhưng trên thực tế những gì đã và đang xảy ra trên khắp miền đất nước có đúng như lời nói của ông Triết và ông Dũng không?. Tại sao ĐCSVN cứ một mực trung thành với Trung quốc một đất nước đã có bề dầy xuyên suốt xâm lăng Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Tại sao phải giữ bí mật những hiệp ước dâng hiến đất đai cho Trung quốc như: quần đảo Hoàng sa do ông Phạm văn Đồng thừa lệnh chủ tịch Hồ chí Minh ký năm 1958 và hiệp ước dâng hiến vùng đất biên giới địa đầu của Ải Nam Quan cuối năm 1999. Tại sao phải giữ bí mật những lần mà quân đội Trung quốc ngang nhiên bắn chết ngư phủ VN trong vùng lãnh hải của Việt Nam…v.v…

Nhân dân Việt Nam rất lấy làm nhục nhã khi không biết được thực tế đất nước của mình bắt đầu từ đâu, ông có lúc nào sống thật với lương tâm để nhìn nhận là ĐCSVN đã có tội rất nhiều với Dân tộc và Tổ quốc không?. Ông Triết đã tuyên bố bỏ điều 4 HP là đồng nghĩa với chúng ta tự sát, không phải như vậy đâu bởi vì bỏ điều 4 HP để thực thi dân chủ, nhân quyền trong một đất nước đa nguyên từ kinh tế lẫn chính trị, khi đó ĐCSVN vẫn có quyền hoạt động công khai bình đẳng với các đảng phái khác theo đúng luật pháp, nếu trong những lần tranh cử và bầu cử tự do mà nhân dân đa số đồng tình với đường lối của ĐCSVN thì đảng vẫn có quyền hợp pháp để lãnh đạo đất nước. Bằng ngược lại đảng sẽ trở thành đối lập để cùng với đảng cầm quyền phục vụ nhân dân và đất nước trong tinh thần tôn trọng luật pháp để vươn lên trong các kỳ bầu cử và ứng cử sau.

Việc được tự do chọn lựa người lãnh đạo đất nước và đại diện cho mình đó là ước mơ cuối cùng mà nhân dân Việt Nam hằng mong đợi.

Để chấm dứt bài viết này tôi xin gởi đến ông lời chân tình như sau: Nếu vũ lực không làm cho thế giới ngưng tiến bộ, nếu đàn áp không làm sai lệch được sự thật, mà chỉ là một vết nhơ trong lịch sử để cho người ta đời đời nguyền rủa, thì thiết tưởng vũ lực và đàn áp chưa phải là biện pháp tốt nhất để che đậy những quan niệm lỗi thời phản tiến bộ. Dù cho ông có tiếp tục đi ngược lại lòng dân để tô đậm thêm con đường danh lợi, nhưng chắc chắn rằng rồi đây ông cũng phải chết bởi vì đó là điểm đến bắt buộc cho con người, khi đó ông sẽ ra đi với 2 bàn tay trắng và chỉ nhận lấy kết quả cho những việc làm thiện hoặc ác đã gây ra trong khi còn sống. Đằng sau cái chết đó là những tiếng khen chê của người đời và nó sẽ được lịch sử lưu truyền mãi theo thời gian, để cho những người thân nhân của ông còn sống phải đau thương gánh chịu hoặc hãnh diện tự hào, tục ngữ VN có câu “ Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”.

Xin chào ông.

Việt Nam, ngày 31/10/2007
Hoàng Trung Việt