Tại sao chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam có thể phản tác dụng?

Asst. Prof. Mai Truong/ The Diplomat - Trung Điền lược dịch

Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước giới truyền thông sau cuộc gặp Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội ngày 10/9/2023. Ảnh: Luong Thai Linh/ Pool via AP

Why Vietnam’s Escalating Anti-Corruption Campaign Might Backfire, Asst. Prof. Mai Truong, The Diplomat, 26/2/2024

Tác giả: Mai Trương
Trung Điền lược dịch

Lời giới thiệu: Giáo sư Mai Trương vừa có một bài viết phân tích về tình hình chống tham nhũng tại Việt Nam đăng trên tạp chí điện tử The Diplomat số ra ngày 26 tháng 2 năm 2024. Tác giả cho rằng “Bằng cách thu hút sự chú ý của công chúng đến nạn hối lộ cấp cao, chiến dịch ‘đốt lò’ có thể vô tình đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc hơn về bản chất của sự cai trị đảng CSVN.”

Mai Trương hiện là Phó Giáo sư Ngành Khoa học Chính trị tại Đại học Marquette, Wisconsin, Hoa Kỳ. Bà nghiên cứu về hệ thống chính trị độc tài, các cuộc biểu tình và phong trào ở Đông Nam Á.

***

Tương tự như các chế độ độc tài khác trên toàn thế giới, sự tồn tại của đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) phụ thuộc vào sự ủng hộ của người dân bình thường. Ban đầu, ĐCSVN tìm kiếm tính hợp pháp và sự ủng hộ rộng rãi thông qua sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, sự sụp đổ của nền kinh tế vào những năm 1980 đã dẫn đến sự vỡ mộng về tính hợp pháp dựa trên hệ tư tưởng, khiến ĐCSVN phải đi theo nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Kể từ đó, ĐCSVN đã dần chuyển từ tính chính đáng dựa trên hệ tư tưởng sang tính hợp pháp dựa trên hiệu quả hoạt động.

Tăng trưởng kinh tế bền vững quả thực đã củng cố sự ủng hộ và niềm tin của công chúng vào sự cai trị của đảng Cộng Sản. Tuy nhiên, tham nhũng, tuy không phải là mới đối với hệ thống độc đảng của Việt Nam, nhưng lại là mối đe dọa đáng kể đối với ĐCSVN hiện nay. Điều này là do tình trạng tham nhũng tràn lan có thể dẫn đến sự yếu kém trong nền kinh tế, gây áp lực lên tính hợp pháp dựa trên hiệu quả hoạt động của đảng.

Nhận thức được rằng tham nhũng gây ra mối đe dọa lớn đối với lòng tin và sự ủng hộ của công chúng đối với đảng, dẫn đến hệ quả cuối cùng là gây nguy hiểm cho sự tồn vong của ĐCSVN, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát động một chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt có biệt danh là “đốt lò” kể từ năm 2016. Kể từ đó, Khoảng 200.000 đảng viên ở tất cả các cấp chính quyền đã bị sa thải, khai trừ khỏi đảng hoặc bị bỏ tù vì tội tham nhũng.

Bước đầu, chiến dịch này được người dân hoan nghênh và góp phần làm tăng niềm tin vào lãnh đạo ĐCSVN. Tuy nhiên, với bất kỳ nỗ lực nào, sự nhiệt tình quá mức có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi. Việc tăng cường chiến dịch chống tham nhũng gần đây có nguy cơ gây phản tác dụng, làm xói mòn lòng tin của công chúng và sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng. Dưới đây là ba rủi ro mà chiến dịch chống tham nhũng có thể gây ra những bất lợi cho ĐCSVN.

Thứ nhất, chiến dịch chống tham nhũng leo thang có thể chính trị hóa người dân. Nói một cách đơn giản, chiến dịch này có khả năng nâng cao nhận thức chính trị của những công dân bình thường, những người có thể sẽ rời xa chính trị. Trong cuốn sách sâu sắc của mình, “Hai logic của sự cai trị chuyên quyền,” Johannes Gerschewski lập luận một cách thuyết phục rằng Việt Nam, giống như các chế độ độc tài khác hợp pháp hóa sự cai trị của họ thông qua hiệu quả kinh tế, đã ngầm thiết lập một khế ước xã hội có đi có lại giữa chế độ và công dân của mình. Trong hợp đồng này, sự hài lòng về kinh tế được đổi lấy sự chấp nhận về mặt chính trị. Khi nhu cầu kinh tế của người dân được đáp ứng, họ đồng ý trở nên “thụ động, thờ ơ và thờ ơ” với chính trị. Để duy trì sự thụ động chính trị này, chế độ thường xuyên sử dụng các trò giải trí phi chính trị, chẳng hạn như bóng đá, các vụ bê bối về người nổi tiếng, âm nhạc và các kênh giải trí khác nhau nhằm chuyển hướng sự chú ý của người dân.

Trong khi ĐCSVN thường bị chỉ trích vì thiếu minh bạch, điều đáng ngạc nhiên là nó lại cho phép thảo luận cởi mở về các vụ tham nhũng. Truyền thông nhà nước thường xuyên cung cấp thông tin chi tiết về từng vụ tham nhũng, nhằm truyền tải thông điệp rằng đảng đang tích cực làm trong sạch mình và duy trì tính hợp pháp của mình với tư cách là đảng cầm quyền. ĐCSVN thậm chí còn phát động một chiến dịch nâng cao nhận thức rộng rãi của công chúng về tham nhũng. Tuy nhiên, sự “minh bạch” mới được phát hiện này đã bất ngờ thu hút sự chú ý của người dân bình thường đến chính trị, trái ngược với ý định của đảng là duy trì sự thụ động chính trị trong công dân của mình.

Ví dụ, trong các cuộc trò chuyện của tôi với người tại một khu dân cư ngoại ô nhỏ ở một tỉnh phía Bắc, chủ đề tham nhũng thường xuyên xuất hiện, làm lu mờ các cuộc thảo luận về những trò tiêu khiển phi chính trị như về các nhân vật nổi tiếng, thể thao và các vụ bê bối khác. Đáng chú ý, đảng Cộng Sản Việt Nam không chỉ cho phép thảo luận cởi mở về tham nhũng mà còn khuyến khích người dân tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng. Chẳng hạn, Thành ủy TP.HCM treo thưởng lên tới 10 triệu đồng (410 USD) cho cá nhân tố giác tham nhũng với điều kiện “thông tin của họ là chính xác và giúp cơ quan có thẩm quyền xác minh, xử lý tham nhũng, hành vi tiêu cực.”

Một ý nghĩa quan trọng của việc kích thích sự quan tâm của người dân đối với tham nhũng là nó có thể mở rộng sang các vấn đề khác mà chế độ muốn che giấu, đồng thời thúc đẩy sự tò mò chung về chính trị trong dân chúng. Một khi sự tò mò này được khơi dậy, chính phủ sẽ khó có thể ngăn chặn hoặc dự đoán quỹ đạo của nó. Khi người dân tham gia nhiều hơn vào việc phát hiện hoặc thảo luận về tham nhũng, họ có thể nâng cao nhận thức về các hoạt động của chính phủ và bắt đầu đặt câu hỏi về các khía cạnh khác của quản trị, có khả năng dẫn đến những hậu quả không lường trước được cho chế độ. Khi tham nhũng trở thành chủ đề thảo luận nổi bật, nó có thể gây ra sự bất mãn và thách thức quan điểm về tính hợp pháp của đảng.

Thứ hai, chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng có thể vô tình phơi bày trước công chúng sự chia rẽ trong giới lãnh đạo của đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống sử dụng tuyên truyền của nhà nước để tô vẽ hình ảnh đoàn kết, liên đới và sức mạnh, đặc biệt là trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các tổ chức chủ chốt khác của trung ương. Duy trì nhận thức về sự gắn kết của giới lãnh đạo ở cấp trung ương là rất quan trọng cho sự tồn tại của chế độ, vì bất kỳ sự chia rẽ nào được nhận thấy trong giới lãnh đạo đều có thể gây ra sự phản đối từ những người dân bất mãn. Quả thực, người dân Việt Nam đã học cách lợi dụng những dấu hiệu của sự chia rẽ trong giới lãnh đạo để bày tỏ sự bất bình của mình, như đã thấy trong các cuộc biểu tình nhắm vào các quan chức địa phương mà họ cho là đi chệch khỏi chính sách của trung ương.

Điều đáng ngạc nhiên là những nỗ lực chống tham nhũng gần đây đã có bước chuyển biến chưa từng có khi nhắm trực tiếp vào các quan chức cấp cao nhất ở cấp trung ương. Chẳng hạn, năm ngoái, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đều bị buộc phải từ chức. Trong dịp Tết Nguyên Đán 2024, nhiều quan chức cấp cao của các Bộ Y tế, Khoa học Công nghệ, Công Thương đã bị bắt giữ. Điều này thể hiện sự khởi đầu của câu chuyện liên quan đến tình hình phân hóa của trung ương. Nhận thức về sự phân hóa như vậy ở cấp trung ương có thể gây nguy hiểm cho ĐCSVN, đặc biệt là trong thời kỳ có những cú sốc bên ngoài có khả năng làm tăng thêm sự bất mãn của công chúng, chẳng hạn như suy thoái kinh tế và thiên tai.

Đáng chú ý là trong khi các học giả, nhà quan sát và những công dân có hiểu biết về chính trị đều nhận thức được các phe phái trong chế độ độc đảng trong khi người dân bình thường thì không như vậy. Chiến dịch chống tham nhũng đột ngột phơi bày thực tế rằng ĐCSVN không thống nhất như họ tuyên bố, có khả năng làm suy yếu tính hợp pháp của đảng và tạo cơ hội cho sự bất đồng chính kiến giữa những người dân bất mãn.

Cuối cùng, chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng tập trung vào các trường hợp tham nhũng riêng lẻ mà không giải quyết các vấn đề cơ cấu căn bản tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển trong hệ thống. Chiến lược này nhằm làm chệch hướng sự chú ý khỏi những sai sót mang tính hệ thống, củng cố quan điểm cho rằng các chính sách và sự lãnh đạo của chế độ về cơ bản là đúng đắn và rằng tham nhũng chỉ là hệ quả của một số đảng viên được cho là “suy thoái về tư tưởng và đạo đức.” Tuy nhiên, câu chuyện này có thể là con dao hai lưỡi. Bằng cách phớt lờ việc thừa nhận hoặc tham gia vào các yếu tố chính góp phần gây ra tham nhũng, chẳng hạn như sự thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hệ thống, chế độ có nguy cơ khiến người dân vỡ mộng theo thời gian. Cuối cùng, mọi người có thể nhận ra rằng tham nhũng đã ăn sâu vào cơ cấu của hệ thống.

Hiện nay, sự lãnh đạo của ông Trọng có vẻ mạnh mẽ, nhưng có nguy cơ là dưới một nhà lãnh đạo tương lai nhẹ tay hơn với tham nhũng, tình hình có thể quay trở lại như trước đó. Điều này đặt ra một rủi ro đáng kể vì nó có thể khiến mọi người đặt câu hỏi tại sao tham nhũng vẫn tiếp diễn bất chấp những nỗ lực chống tham nhũng đang diễn ra. Nếu không giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống tạo điều kiện cho tham nhũng, những nỗ lực chống tham nhũng của chế độ cuối cùng có thể tỏ ra không hiệu quả.

XEM THÊM: