Việt Nam Trước Cơn Bão Dân Chủ Tại Đông Âu

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
JPEG - 12.1 kb

Trang Nhà Việt Tân xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả Chương Thứ IX, trong tác phẩm Đông Âu Tại Việt Nam của tác giả Lý Thái Hùng đã xuất bản vào đầu năm 2007. Đây là tác phẩm đã được tác giả nghiên cứu và biên soạn trong 10 năm (1995-2006) về những diễn biến chính trị đưa đến sự tan rã các chế độ độc tài Cộng sản tại các quốc gia Đông Âu cùng với những đối chiếu với tình hình Việt Nam. Sách dày 600 trang với 10 chương:

1/Đông Âu;
2/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Ba Lan;
3/ Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Hung Gia Lợi;
4/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Đông Đức;
5/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Tiệp Khắc;
6/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Bulgaria;
7/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Lỗ ma Ni;
8/Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Nam Tư;
9/Việt Nam Trước Cơn Bão Dân Chủ Tại Đông Âu;
10/Đông Âu tại Việt Nam.

Tác Phẩm Đông Âu Tại Việt Nam đã được độc giả trong và ngoài nước đón nhận rất tích cực và đây là tác phẩm đầu tiên bằng Việt ngữ nghiên cứu chi tiết về tình hình Đông Âu. Để biết thêm chi tiết quý vị có thể vào trang nhà www.dongautaivietnam.com.


Cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu đã tác động mạnh mẽ vào Việt Nam. Lúc đó, từng người, tùy theo vị trí trong xã hội, đã có những phản ứng khác nhau.

JPEG - 16 kb

Thành phần lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, thì cố bưng bít mọi tin tức hoặc diễn giải sai lạc về những diễn biến xảy ra ở các nước Đông Âu và cương quyết chống lại xu hướng đa nguyên chính trị, cho đó là đầu dây mối nhợ đưa đến sự sụp đổ của chế độ và sự mất độc quyền cai trị của đảng. Họ tiếp tục cố thủ trong lô cốt giáo điều Mác-Lê để duy trì độc quyền cai trị, dù biết là chủ nghĩa này đã phá sản. Những người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đông cán bộ đảng viên thì nhìn rõ là chủ nghĩa Mác – Lê không còn là ý thức hệ “ưu việt” như họ đã bị nhồi nhét và tin tưởng một cách mù quáng trong quá khứ. Trong số này, đã có người can đảm nhìn ra chính ý thức hệ Mác – Lê đang là chướng ngại ngăn cản đà phát triển của đất nước và sự tiến bộ của dân tộc. Đặc biệt là đã có một số văn nghệ sĩ viết bài ca ngợi dân chủ đa nguyên và tố cáo những tệ nạn trong xã hội do chế đố cực quyền sản sinh ra.

Trong khi đó, vì bị chế độ bưng bít mọi luồng thông tin từ bên ngoài và bị bộ máy tuyên truyền diễn dịch sai lạc về mục tiêu đấu tranh của các phong trào dân chủ tại Đông Âu, đại đa số quần chúng ở trong nước đã không có một nhận thức rõ ràng về các biến cố này nên tỏ thái độ thờ ơ. Một thiểu số tuy biết rõ các diễn biến nhờ những liên lạc và tin tức chia xẻ từ một số người thân đang tu nghiệp hoặc đang lao động tại các nước Đông Âu, nhưng cũng chỉ có phản ứng chờ đợi. Điều bất hạnh là vào thời gian này, những nhân vật đấu tranh tiêu biểu ở trong nước như Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Linh Mục Trần Đình Thủ, ông Võ Đại Tôn…. lại ở trong vòng lao lý hay dưới sự quản thúc của chế độ. Chỉ có người Việt tại hải ngoại, trực tiếp theo dõi những diễn biến tin tức qua các hệ thống truyền thanh và truyền hình quốc tế, thì rất phấn chấn trước những biến cố dồn dập

JPEG - 12 kb

tại Đông Âu, nhưng phản ứng của họ nói chung thì rất là phức tạp. Một số người thì có ý nghĩ “bất chiến tự nhiên thành”, tức chờ đợi đảng Cộng sản Việt Nam tự tan rã do mất chỗ dựa vào khối Cộng sản quốc tế. Một số người khác thì chờ đợi những văn nghệ sĩ trí thức ở trong nước vùng lên làm cuộc chuyển đổi lịch sử. Những người tích cực ở các tổ chức đấu tranh thì tìm cách chuyển tin tức về trong nước và hỗ trợ những tiếng nói đối kháng để dấy lên phong trào dân chủ hóa Việt Nam.

Lược qua một số phản ứng của từng thành phần nói trên, chúng ta thấy những người có điều kiện theo dõi các diễn tiến tại Đông Âu đều thấy rõ là chủ nghĩa Mác – Lê đã phá sản, kể cả một số người nằm trong thành phần lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng vào lúc đó, lực lương đấu tranh của người Việt còn quá non yếu, trong khi quần chúng lại bị bưng bít và thiếu lãnh đạo nên đã không thể phát động một cao trào nhằm tạo ra những xoay chuyển cần thiết. Tuy nhiên, chính nhờ những biến chuyển này mà người Việt Nam đã rút kinh nghiệm để nuôi dưỡng phong trào đấu tranh, tiếp tục đối kháng và gây khó khăn rất nhiều cho chế độ Hà Nội trong suốt hơn một thập niên vừa qua, với một số những diễn biến đáng chú ý sau đây.

Từ “Cởi” Đến “Trói” Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Cho đến năm 1985, nền kinh tế Liên Xô và các nước Cộng sản nói chung đã ngưng phát triển và gặp những áp lực không thể cưỡng laị của tình thế. Thứ nhất là tình trạng nghèo khốn và cùng quẫn của dân chúng đã gây nên những sức ép trong xã hội. Thứ hai là tình trạng quan liêu, cửa quyền của guồng máy nhà nước đã làm mất hiệu năng kinh tế. Thứ ba là tình trạng suy đồi và thoái hóa của guồng máy đảng đã làm cản trở mọi chính sách cải tổ. Để cứu vãn tình thế, tại Đại hội Toàn Đảng lần thứ 27 vào tháng 7-1985, ban lãnh đạo đảng Cộng sản Liên Xô đã phải đưa ra chủ trương cởi mở công khai (Glasnost), và tái phối trí (Perestroika) guồng máy chính trị, kinh tế và xã hội. Mục tiêu chính của Perestroika là tái phối trí lại bộ máy sản xuất, cải thiện hiệu quả lao động của dân chúng hầu giải quyết bài toán thiếu hụt kinh tế. Ưu tiên bành trướng đế quốc cộng sản đã được tạm hoãn để quay về giải quyết những vấn đề nội chính, qua việc thu hút tài nguyên và kỹ thuật của Tây phương, cần thiết cho sự tái phối trí và nâng cao hiệu năng kinh tế. Qua chủ trương này, Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên xô thời đó là Gorbachev đã chỉ thị các đảng Cộng sản chư hầu phải rập khuôn làm theo, mở đầu cho những biến cố xảy ra ở Đông Âu.

JPEG - 16.6 kb

Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là một biệt lệ, và đang bị khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội sau 10 năm (1975-1985) cải tạo miền Nam để “tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc” lên xã hội chủ nghĩa nên cũng đã phải thay đổi chính sách theo Liên Xô. Từ những năm 1984, qua sự chỉ đạo của các cố vấn Liên Xô, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung chấn chỉnh về mặt lưu thông phân phối, đặc biệt là thị trường, giá, lương, tiền nhưng vẫn theo cơ chế cũ nên hoàn toàn thất bại. Đến tháng 5 năm 1986, tại hội nghị lần thứ 10 của ban chấp hành Trung ương đảng, lãnh đạo Hà Nội mới nhận ra rằng những sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá, lương, tiền đã tạo thêm tình trạng khủng hoảng nên mới “hạ quyết tâm” xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tức là xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường. Tháng 12 năm 1986, đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đại hội đại đảng kỳ VI dưới khẩu hiệu “đổi mới” và “cải tổ cơ cấu” theo bước đi của Gorbachev. Đây cũng có thể coi là đại hội chỉnh đảng quan trọng vì hàng loạt cán bộ thuộc cánh Lê Duẩn (ông Lê Duẫn chết vào tháng 7-1986) bị loại ra khỏi Trung ương đảng.

Trong báo cáo đọc trước đại hội, Trường Chinh, với tư cách xử lý thường vụ Tổng bí thư đã nói rằng: “Đối với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đổi mới là một bước tiến về phía trước. Đối với nước ta, đổi mới lại càng quan trọng, đó là vấn đề sống còn… Chỉ bằng cách đổi mới đường lối suy nghĩ và hành động – đổi mới tư duy, nhất là đổi mới tư duy về kinh tế, đổi mới lề lối làm việc, đổi mới tổ chức, cán bộ – ta mới có thể đưa chúng ta ra khỏi tình hình cực kỳ khó khăn hiện nay”. Nhưng Trường Chinh lại khẳng định: “đổi mới không có nghĩa là từ bỏ xã hội chủ nghĩa mà là tận dụng khả năng của đất nước để gia tăng sản xuất nằm trong khung của một hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đây là những mâu thuẫn kéo dài dây dưa trong nội bộ đảng mãi cho đến sau này”.

Đại hội đảng Cộng sản kỳ VI đã bầu Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, bắt đầu cho áp dụng một số cải tổ theo xu hướng đổi mới. Vào lúc đó, Bộ chính trị và Trung ương đảng tập trung giải quyết bài toán khủng hoảng kinh tế trên căn bản xóa bỏ chế độ tập trung bao cấp, bãi bỏ chính sách hai giá, thực hiện chế độ khoán hộ để khuyến khích nông dân canh tác hầu giải quyết tình trạng thiếu hụt lương thực, bắt đầu cho các xí nghiệp quốc doanh tự quản và công nhận nhiều thành phần kinh tế hoạt động bên cạnh quốc doanh và tập thể, theo xu hướng kinh tế thị trường. Từ cuối năm 1987, Trung ương đảng bắt đầu thảo luận về công tác đổi mới tổ chức, cán bộ và năng lực lãnh đạo các cấp đảng ủy để giảm thiểu tình trạng quan liêu, tiêu cực trong đảng cũng như ngoài xã hội. Hỗ trợ cho nỗ lực này, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với bút hiệu N.V.L đã viết một loạt bài “Những Việc Cần Làm Ngay” đăng trên Nhật báo Nhân Dân, từ ngày 25-5-1987, tạo sự quan tâm trong dư luận. Loạt bài của Nguyễn Văn Linh đã mở màn cho giai đoạn xuất hiện một số bài viết nêu bật các tệ đoan xã hội, nạn cường hào ác bá địa phương, nạn tham nhũng cửa quyền của cán bộ đảng trên một số báo.

GIF - 20.1 kb

Sau những loạt bài của Nguyễn Văn Linh, Bộ chính trị đã bật đèn xanh cho đội ngũ văn nghệ sĩ của đảng bắt đầu tham gia cái gọi là “chiến dịch chống tiêu cực” trong xã hội và trong các cơ sở đảng. Chính sự bật đèn xanh này, có thể nói là trong giai đoạn đầu khi Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền đã tạo ra một sinh khí mới trong các hoạt động của giới văn nghệ sĩ. Ban bí thư đã ra chỉ thị “tăng cường sự lãnh đạo của đảng nhằm sử dụng tốt hơn báo chí trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực”, qua việc cho phép sử dụng báo chí, đài phát thanh để nêu lên những sự việc, cá nhân làm điều sai trái. Bản chỉ thị còn nêu lên một số điểm cụ thể như: “Phê bình công khai trên báo, đài trước mắt cần tập trung phê phán bệnh quan liêu, vô trách nhiệm, làm trái chủ trương chính sách của đảng và nhà nước, làm rối loạn trật tự, kỷ cương, gây lãng phí lớn, chống tệ ức hiếp quần chúng, chuyên quyền độc đoán, bắt người trái phép…”

Bộ chính trị còn bật đèn xanh cho Tướng Trần Độ lúc đó là Trưởng ban văn hoá – văn nghệ Trung ương, đứng ra tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ, trí thức tại Hà Nội vào hai ngày 6 và 7-1-1987, với mục tiêu vận động tinh thần của giới này tham gia vào chiến dịch “sửa sai”. Những nhân vật tiêu biểu được mời trong dịp này có các nhà văn như Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Huơng…. các nhà thơ như Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Hồ Ngọc, Thanh Hương.. các nghệ sĩ Huy Du, Phạm Tuyên, Vũ Tự Lân… các nhà điện ảnh Trần Văn Thuỷ, Bùi Đình Hạc, Đoàn Lê, Lý Thái Bảo… và một số trí thức như Nguyễn Khắc Viện, Phan Huy Lê, Phan Đình Diệu… Cuộc họp mặt này được cựu Tướng Trần Độ ghi lại trong tập sách “Đổi Mới: Niềm Vui Chưa Trọn Vẹn” xuất bản tại hải ngoại vào năm 2000. Cuộc gặp gỡ diễn ra 2 ngày, tổng cộng khoảng 15 tiếng đồng hồ, Nguyễn Văn Linh chỉ phát biểu 5 phút mở đầu và 50 phút kết luận sau hai ngày ngồi lắng nghe gần mấy chục phát biểu của các văn nghệ sĩ, trí thức.

Trong phần phát biểu mở đầu, Nguyễn Văn Linh đã nêu ra câu hỏi: “Hình như từ ngày giải phóng đến nay, những thành tựu văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn trước, không biết thế có đúng không? Nếu không đúng như thế thì tôi mừng. Còn nếu đúng như thế thì sao? Hay do lãnh đạo có sự kiểm duyệt, sự hạn chế gì? Nếu có tình hình ấy, tôi đề nghị đó là một chủ đề để chúng ta trao đổi..” Phát biểu của Nguyễn Văn Linh đã như mở toạc cánh cửa “khống chế” của đảng, giúp cho các văn nghệ sĩ lần lượt bày tỏ những “ấm ức” từ lâu. Nhà văn Hồ Ngọc phát biểu: “Vâng, văn nghệ ta nghèo, vừa nghèo, vừa lạc hậu như đất nước ta hiện nay vậy… chỉ vì những vấn đề cơ bản chưa bao giờ được đề cập một cách công khai và được giải quyết một cách đầy đủ, đến nơi đến chốn… do đó trong thực tiễn đời sống văn học nghệ thuật đã đẻ ra biết bao nhiêu chuyện rắc rối, thậm chí đau lòng..,” Giáo sư Nguyễn Khắc Viện đi thẳng vào câu trả lời:

JPEG - 3.9 kb

“Trong những năm qua văn học nghệ thuật của ta chưa đóng được đầy đủ vai trò của nó. Vì bị trói buộc. Sự lãnh đạo văn nghệ trong mấy năm qua nhiều lúc còn thô sơ, tỉa cành bắt sâu trong một vườn hoa quý lại dùng dao búa làm rừng khai hoang. Người làm văn nghệ luôn luôn bị nhắc nhở: phải làm thế này, không được làm thế kia. Bị trói buộc bởi một loạt huý kỵ…” Nhà văn Anh Đức nêu lên cốt lõi của vấn đề: “yêu cầu lớn của nhân dân và của xã hội hiện nay là yêu cầu cầu dân chủ hoá”. Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã nói về sự tệ hại của “bao cấp về tư tưởng” rằng: “chỉ cần một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi ngưòi, tất sẽ dẫn đến một tình trạng độc đoán về tư tưởng và như vậy tất bóp chết mọi sáng tạo, làm khô kiệt văn học nghệ thuật”.

Sau khi lắng nghe nhiều phát biểu công kích thẳng vào sự lãnh đạo của đảng, ở phần kết thúc cuộc gặp mặt, Nguyễn Văn Linh đã thừa nhận một số sai lầm của đảng trong lãnh vực văn học nghệ thuật, qua ba điểm như: 1/đảng đã đánh giá thấp vai trò văn hoá văn nghệ và vị trí của các văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hoá; 2/đảng lãnh đạo văn hoá văn nghệ thiếu dân chủ, còn độc đoán và áp đặt; 3/cơ chế tổ chức, quản lý và các chế độ, chính sách đối với văn hoá và văn học nghệ thuật còn nhiều điều chưa đúng, còn nhiều điều bất công.

Trong lãnh vực kinh tế xã hội, Nguyễn Văn Linh cũng cho rằng đảng đã phạm nhiều sai lầm nên khiến đời sống người dân còn quá khổ. Trung ương đang cố gắng sửa chữa các sai lầm. Muốn sửa phải tìm ra nguyên nhân. Có giải quyết, sửa chữa các sai lầm mới đổi mới được, đổi mới chính sách, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ… Nguyễn Văn Linh cũng đã nói với các văn nghệ sĩ rằng, ông ta không là nhà báo, nhà văn nhưng “ngứa ngáy” quá nên viết “những việc cần làm ngay”, nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng cũng có người cho rằng “sao lại bôi đen chế độ, không khéo đây là một kiểu phát động cách mạng văn hoá”. Cái khó bây giờ là dám nêu cái xấu, nên tôi thông cảm với quý vị. Sau đó, Nguyễn Văn Linh đã kêu gọi các văn nghệ sĩ: “không nên uống cong ngòi bút của mình. Người nghệ sĩ phải dũng cảm, có tấm lòng trong sáng, đừng chùn bước”.

Cuộc gặp gỡ nói trên đã có tác dụng làm thay đổi một phần tư duy của bộ phận lãnh đạo. Chỉ 10 ngày sau, Nguyễn Văn Linh cho triệu tập cuộc họp Bộ chính trị để thông qua nghị quyết về văn hoá văn nghệ, đã được tướng Trần Độ chuẩn bị cả năm trước đó mà bị ngâm tôm. Ngày 28-1-1987, dưới chữ ký của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Nghị Quyết 05 mang tựa đề “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới” đã được ra đời.

Nội dung chính của Nghị Quyết đã có những đoạn cởi trói cho sự tự do sáng tác của văn nghệ sĩ vào giai đoạn đó như sau: “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ để phát triển tài năng… Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình) và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình. Đảng và nhà nước khuyến khích thảo luận, tranh luận công khai để tìm chân lý. Cần tạo một không khí hồ hởi trong sáng tác, khêu gợi nhiều cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình và thể loại văn nghệ, các hình thức biểu hiện”.

JPEG - 6.7 kb

Nương theo lời kêu gọi của Nguyễn Văn Linh rằng giới văn nghệ sĩ phải: “nói lên sự thật, dù là sự thật phũ phàng”“không nên uốn cong ngòi bút của mình”, một số văn nghệ sĩ như Phùng Gia Lộc, Trần Khắc, Hồ Trung Tú, Ngô Ngọc Bội, Hà Văn Thùy, Lâm Thị Thanh Hà, Hoàng Hữu Các Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp … đã viết nhiều bài như “Cái Đêm Hôm Ấy … Đêm Gì”, “Người Đàn Bà Qùy”,”Suy Nghĩ Trên Đường Làng”, “Chuyện Của Ông Lão Thường Dân”, “Bông Lúa Nổi Giận”, “Công Lý, Đừng Quên Ai”, “Đêm Trắng”, “Cái Thời Lãng Mạn”, “Tướng Về Hưu”… không những phản ảnh tình trạng cường hào ác bá tại nông thôn mà còn gián tiếp nêu lên những chính sách sai lầm của đảng trong thời gian vừa qua. Những tác phẩm “Bên kia bờ ảo vọng” của Dương Thu Hương, “Thời xa vắng” của Lê Lựu, “Một giờ trước lúc rạng sáng” của Nguyễn Quang Lập, “Ly Thân” của Trần Mạnh Hảo… tuy không công kích thẳng chế độ nhưng đã trình bày những mâu thuẫn trong nội tâm con người, những hoài nghi, những bất mãn của cá nhân và lo âu, xao xuyến trước những vấn đề của đất nước.

Đặc biệt vào thời gian này, Ban bí thư và Thành ủy Hà Nội còn cho phép xuất bản những tập sách nhỏ dưới tựa đề “sách hưỏng ứng những việc cần làm ngay”, do nhà văn Tô Hoài phụ trách. Mục tiêu của loại sách này là để: “in chọn lọc những phóng sự, điều tra, nghiên cứu về các vấn đề xã hội mà ai cũng quan tâm, điển hình những con người đáng biểu dương, những con ngưòi bị phê phán… để phát huy đức tính cách mạng, khắc phục mọi thói hư tật xấu”. Một vài thiên phóng sự đã tạo chú ý dư luận thời đó như “Ruộng đất mà biết nói năng” của Bùi Dư, viết về những vụ cưỡng đoạt, chiếm dụng đất đai của cán bộ khiến cho Tổng Cục Ruộng Đất phải lên tiếng. Phóng sự “Tiếng Hú Của Con Tàu” của Nguyễn Thị Vân Anh đề cập về những tiêu cực của ga xe lửa ở Hà Nội và những bỉ ổi, thương tâm của hành khách trên các tuyến xe lửa, khiến cho Nguyễn Văn Linh phải yêu cầu Đỗ Mười trong ban bí thư vào thời đó điều tra và sau đó Tổng Cục Đường Sắt phải lên tiếng. Thiên điều tra “Sữa để làm gì” của Lê Bầu viết về những nghịch lý của các nông trường sản xuất sữa. Nói chung, những thiên phóng sự, điều tra đã phần nào mở toang cánh cửa bưng bít, phơi bày một số nghịch lý đã bị che dấu từ hàng chục năm qua.

JPEG - 6.6 kb

Từ năm 1988 bắt đầu xuất hiện thêm những cây bút lý luận như Lữ Phương, Hà Sĩ Phu, Lê Ngọc Trà, Phạm Xuân Nguyên, Lại Thiên Ân… tạo ra những cuộc bút chiến giữa họ và các cán bộ tuyên huấn của đảng về quan niệm giữa văn nghệ và chính trị, đòi đảng chấp nhận sự độc lập của văn nghệ. Một số bài viết khác đề cập về dân chủ hóa, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, đòi đa nguyên đa đảng đã tạo sự quan tâm trong quần chúng. Trong giai đoạn này, nhiều hội văn nghệ sĩ địa phương được thành lập và cho ra đời một số tờ báo địa phương như tờ Sông Hương ở Huế, tờ Langbiang ở Lâm Đồng, tờ Đất Quảng ở Đà Nẵng, tờ Nghĩa Bình ở Quy Nhơn, tờ Cánh Én ở Phú Khánh… Những bài viết công kích chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi đảng phải thực thi dân chủ hóa, nhất là vạch trần những tội ác của cán bộ lãnh đạo đảng ở cấp trung ương lẫn địa phương đã tạo rất nhiều khó khăn cho nội bộ đảng, vì vai trò lãnh đạo của đảng bị thách đố. Trong khi đó, những biến chuyển chính trị ở các nước Đông Âu cũ như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc về việc xuất hiện các phong trào quần chúng đòi tự do dân chủ đã tác động vào Việt Nam, làm cho Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu lúng túng.

Lo sợ quyền lực lãnh đạo của đảng bị soi mòn trước sức bật mạnh mẽ của giới văn nghệ sĩ, trí thức trong nước, Bộ chính trị bắt đầu giảm tốc độ đà đổi mới, bước đầu là giới hạn những bài viết đề cập về các tệ đoan ở trong đảng. Tại Hôi nghị lần thứ 5 của ban chấp Trung ương đảng khoá VI vào tháng 6-1988, Nguyễn Văn Linh lại lớn tiếng phê phán một số bài viết cũng như một số tác phẩm đã vượt quá giới hạn. Nguyễn Văn Linh cho rằng “dân chủ phải có lãnh đạo, tự do không phải là vô bờ bến” và ra lệnh cấm phổ biến một số tác phẩm. Liền sau đó, những loạt bài ký tên N.V.L đăng trên báo Nhân Dân bị ngưng vĩnh viễn.


JPEG - 6.4 kb

Tháng 9-1988, Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn (họp từ ngày 5 đến ngày 9-9-1988) đã ra nghị quyết “uốn nắn” lại tờ Văn Nghệ có nội dung như sau: “Vừa qua, tuần báo Văn Nghệ đã có một số đóng góp tích cực trong công cuộc đổi mới. Song bên cạnh đó, tuần báo đã có những khuyết điểm, lệch lạc, trong đó có những lệch lạc nghiêm trọng. Ban chấp hành giao cho Ban thư ký uốn nắn chấn chỉnh tờ tuần báo Văn Nghệ về nội dung và tổ chức, nhằm nâng cao chất lượng của tuần báo Văn Nghệ theo hướng đổi mới”. Nghị quyết “uốn nắn” lại tờ Văn Nghệ đã bị giới văn nghệ sĩ trong nước phản ứng mạnh mẽ. Ngay từ tháng 9-1988, gần một trăm nhà sáng tác trẻ hội thảo ở Hà Nội, rồi tiếp theo là mười hai nhà văn ở Sài Gòn, báo Sông Hương (Huế), những nhà văn ở các địa phương như Lâm Đồng, Phú Khánh, Nghĩa Bình đã viết thư, ra thông cáo ủng hộ việc làm của báo Văn Nghệ và phản đối nghị quyết của Hội Nhà Văn. Trong quá trình “cởi trói tư duy” tờ Văn Nghệ của Hội Nhà Văn nhập cuộc chậm nhất so với các tờ báo Lao Động, Đại Đoàn Kết, Tuần Tin Tức… Song, dưới sự điều động của nhà văn Nguyên Ngọc, Tổng Biên Tập tờ Văn Nghệ, tuần báo này đã đi hàng đầu trong cuộc “đổi mới báo chí”, bằng hàng loạt bài phóng sự điều tra, bút ký, truyện ngắn, thơ, lý luận văn học từ mùa Xuân năm 1987,đã tạo một ảnh hưởng rất lớn trong dư luận.

Trước những chống đối của các nhà văn, đầu tháng 10-1988, Ban thư ký Hội Nhà Văn đã công bố một bản tin “cụ thể” để giải thích lý do “uốn nắn” tờ Văn Nghệ. Nhưng bản tin giải thích của Ban thư ký không thỏa mãn được dư luận nên nhiều nhà văn tiếp tục viết bài công kích cả Ban Tuyên Huấn Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Đến ngày 2-12-1988, theo chỉ thị của Ban Tuyên Huấn Trung ương đảng, Hội Nhà Văn đã ra quyết định cách chức Tổng biên tập tờ Văn Nghệ của Nhà văn Nguyên Ngọc. Sự cách chức Nguyên Ngọc được coi như dấu mốc của giai đoạn cởi trói “văn nghệ” bắt đầu xiết lại. Song song với nghị quyết “uốn nắn” tờ Văn Nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương đảng đã cho đình chỉ hai tờ báo “Tổ Quốc” và “Dân Chủ” của hai đảng ngoại vi là Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội vừa tuyên bố tự giải tán mấy tháng trước đó. Lúc đó, hai tờ báo này đã tích cực loan tải những bài viết kêu gọi đảng phải dân chủ hóa và chấp nhận đa nguyên, đặc biệt là đăng lại những bài viết đề cập về vấn đến dân chủ của một số học giả tại những nước Đông Âu.

Để bắt đầu kiểm soát lại các hoạt động báo chí, đầu tháng 1-1989, Bộ thông tin ra một quyết định để giải quyết những “trường hợp vi phạm luật pháp và quy định trong lãnh vực truyền thông”, tức báo chí và ngành in ấn với những điểm đáng chú ý như: 1/ Điều chỉnh tình trạng phát hành sách báo không do kế hoạch và được Bộ Thông tin định trước mà chỉ do sáng kiến của Cơ quan; 2/ Điều chỉnh việc cấp giấy phép phát hành; 3/ Điều chỉnh cơ chế phát hành.

Quyết định trên còn viết rằng: “Ngay tức khắc, việc cấp giấy phép cho báo chí, cơ quan phát hành, nhà in, sẽ tạm thời đình chỉ. Các cơ quan, các Ủy ban Nhân dân địa phương tức thời thành lập các Ủy ban điều tra tình hình in ấn và phát hành sách báo ở địa phương, cơ quan mình để trừng phạt đích đáng các thành phần “xấu” đã lợi dụng tình hình để xử dụng truyền thông vào những việc phi pháp, gây thiệt hại cho tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các Bộ, Sở, Cơ quan và địa phương tức thời kiểm điểm lại những sách báo đã được in ấn, phát hành trong thời gian qua để ngăn chận, những sách báo đã được tung ra một cách phi pháp, nhất là những sách báo từ nước ngoài được phiên dịch hoặc phổ biến trái phép…”

JPEG - 3.9 kb

Sau khi tung biện pháp kiểm soát hoạt động báo chí, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa VI từ ngày 20 đến 29-3-1989, đưa ra chủ trương “ngưng” kế hoạch cởi trói tư duy với nhận định rằng: “Mặc dù chính sách cởi trói tư duy do Trung ương đảng đề ra đã mang tính chỉ đạo và sáng suốt, nhưng vì các cán bộ cơ sở không chấp hành đúng chỉ thị nên nhiều sự phát triển nói chung là không được đồng bộ (?). Tình trạng kinh tế, xã hội vẫn còn khó khăn nhiều mặt và không đảm bảo được chỉ tiêu do nhà nước đề ra…” Nghị Quyết của Hội nghị này cũng đã bắt đầu tấn công thẳng vào giới văn nghệ sĩ như sau: “Công tác lãnh đạo tư tưởng thiếu chủ động, chưa dự kiến trước những khuynh hướng tư tưởng sai lệch có thể nảy sinh trong quá trình đổi mới, chưa kịp thời trang bị những nhận thức mới cần thiết cho đảng viên.. Chưa kịp thời ngăn chận những tư tưởng sai lầm trong một số cán bộ, đảng viên, những lệch lạc của một số cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, để tình trạng văn hoá phẩm xấu lan tràn kéo dài”. Sau đó, Trung ương đảng đã công bố 6 nguyên tắc nhằm xiết chặt hàng ngũ đảng và ngăn cấm mọi lên tiếng đòi hỏi đa nguyên. Sáu nguyên tắc, đó là:

Một, “tiến lên xã hội chủ nghĩa” là điều phải thực hiện cho được vì là con đường do đảng và Hồ Chí Minh vạch ra. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải là mục tiêu của đảng và nhân dân. Việc “đổi mới” là một phương sách hữu hiệu nhất được áp dụng để đạt đến những mục tiêu kể trên, trong tình hình chính trị cũng như kinh tế hiện nay.

Hai, chủ nghĩa Mác -Lê luôn luôn là lý thuyết căn bản soi sáng cho những chính sách do đảng đề ra. Những suy tư “đổi mới” phải nhắm đến mục tiêu làm giàu mạnh chủ nghĩa xã hội, chứ không thể phản nghịch và đe dọa xã hội chủ nghĩa.

Ba, đổi mới hành động và những cơ chế trong hệ thống chính trị không thể đi ra ngoài đường hướng gia tăng sức mạnh lãnh đạo của đảng. Vì thế, mọi cuộc chỉnh đốn hàng ngũ đảng viên phải làm giàu mạnh tính chuyên chính vô sản, để đảng và nhà nước quản lý mọi vấn đề một cách hiệu quả hơn.

Bốn, sự chỉ đạo sáng suốt của đảng phải được chấp nhận và thi hành triệt để, hầu có thể bảo vệ cũng như xây dựng quê hương xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải phê bình những hành động tiêu cực của các cán bộ lãnh đạo địa phương. Vì những sai trái của cấp bộ địa phương mà uy tín chỉ đạo của đảng bị phương hại.

JPEG - 9.5 kb

Năm, dân chủ phải được trải rộng cho từng đời sống xã hội. Dân chủ được đề cập ở đây không thể bị ngộ nhận là dân chủ tư bản, mà phải được thông suốt là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành song đối với chế độ tập quyền trung ương, và quá trình này là trách nhiệm của nhân dân và cán bộ nhà nước. Dân chủ được áp dụng cho từng cá nhân, đồng thời việc trừng phạt cũng phải được triệt để sử dụng đối với những bọn chống phá cách mạng, làm nguy hại cho nền an ninh xã hội chủ nghĩa.

Sáu, yêu nước phải là yêu chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa, nối kết sức mạnh quốc gia với những điều trong kỷ nguyên mới của quốc tế xã hội chủ nghĩa.

Dựa trên 6 nguyên tắc này, Trung ương đảng đã huy động cán bộ khai triển thành những bài viết nhằm tấn công các quan điểm đòi đa nguyên và sáng tác tự do của những nhà văn “phản kháng” và tập trung công sức đánh bóng lại chủ nghĩa xã hội. Ngày 31-5-1989, Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tuyên Huấn Trung Ương đã viết bài: “Tại sao chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”, với một vài nội dung như:”… Chúng ta phải thấu triệt đa nguyên là tính hiện thực xã hội chủ nghĩa trong một vài phạm trù kinh tế, hay cũng phải hiểu là tính đa dạng của mẫu mực xã hội chủ nghĩa đang phát huy trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chủ nghĩa đa nguyên không thể bị ngộ nhận như là một hệ thống đa đảng, tương tự như chế độ nguỵ quyền của miền Nam trước đây… Trong tiến trình cải tiến dân chủ, đồng chí Tổng Bí Thư (Nguyễn Văn Linh) đã mang đến cho chúng ta nhận thức mới, là phải cải tạo hệ thống chính trị, song hành với việc phát huy năng động tính của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của đảng trong việc thay đổi biện pháp lãnh đạo. Vì thế, chúng ta xác tín chống lại chủ nghĩa đa nguyên, vì chúng có xu hướng cổ võ cho sự hình thành những đảng đối lập, những tổ chức chính trị hoạt động biệt lập. Hiện tượng những bọn thiểu số chủ trương đa nguyên muốn tấn công vào vai trò chỉ đạo sáng suốt của đảng, làm lạc hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nếu không kịp thời tiêu diệt, cơ chế chính trị trong nước sẽ đi đến tình trạng rối loạn và vô chính phủ”.

JPEG - 7.8 kb

Ngoài ra, để xiết chặt hàng ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trước các diễn biến phức tạp tại những nước cộng sản ở Đông Âu, Ban bí thư đã ra chỉ thị mang số 52-CT/TW ngày 8-6-1989 về “đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học, nghệ thuật”. Sau đó, Ban bí thư còn giải tán Ban Văn hóa – Văn nghệ do Tướng Trần Độ làm Trưởng ban, để sát nhập vào trong Ban Tuyên Huấn cải danh thành Ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, giao cho Trần Trọng Tân làm Trưởng ban. Hành động sát nhập hai ban nói trên lại với nhau và giao cho Trần Trọng Tân, một lý thuyết gia Mao-ít phụ trách, được coi như gián tiếp cách chức cựu Tướng Trần Độ. Song song, nhằm tạo lý cớ để khống chế xu thế đòi dân chủ hóa trong nội bộ đảng và ngăn chận những phong trào chống đối của quần chúng có thể xảy ra như trường hợp Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan, Phong Trào Sinh Viên tại Trung Quốc, Trung ương đảng đã vẽ ra hình ảnh mất an ninh, do sự xuống cấp toàn bộ của các cán bộ đảng viên, cộng với sự xúi giục của những bọn phản động đang đeo đuổi chủ nghĩa bá quyền đế quốc.

Trong bài viết “Tăng cường phòng thủ Quốc gia và những nghĩa vụ bảo vệ an ninh”, Trung tướng Đặng Vũ Hiệp, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội, đăng trên tờ Tuyên Truyền vào tháng 7-1989, đã viết như sau: “Kẻ thù của nhân dân ta đã thay đổi chiến thuật, vẫn ngoan cố thực hiện mưu đồ ngăn cản những bước tiến lên xã hội chủ nghĩa, phá hoại mọi cơ chế hoạt động của cơ quan nhà nước. Chúng gia tăng các hoạt động chống phá, nhắm đến việc đe dọa an ninh toàn cõi Việt Nam. Chúng gọi đây là cuộc đấu tranh động não với sự hậu thuẫn của sức mạnh quân sự. Những bọn phản động tăng cường hoạt động phá hoại cách mạng trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa và chủ thuyết. Mục tiêu của chúng là vô hiệu hóa mọi chính sách của nhà nước, gây khủng hoảng kinh tế, rối loạn trật tự xã hội, tạo thêm bất mãn trong quần chúng nhân dân, âm mưu thay đổi chế độ, và mưu đồ biến những cuộc nổi loạn xã hội thành nổi loạn chính trị”.

Bài viết của Tướng Đặng Vũ Hiệp được coi là lời cảnh cáo về sự an nguy của chế độ và cũng là lý do để Bộ chính trị đóng lại cánh cửa “đổi mới” sau hai năm “cởi trói” từ tháng 5-1987 đến tháng 6-1989, trước những biến chuyển không lường được tại Đông Âu và Liên Xô vào lúc đó.

Những Phản Ứng Lạc Điệu Của Hà Nội Trước Biến Cố Đông Âu

Từ tháng 6-1989 trở đi đã xảy ra rất nhiều biến cố quan trọng nằm ngoài dự kiến của Bộ chính trị và Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam.

Biến cố đầu tiên là hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc đã chiếm quảng trường Thiên An Môn đòi đảng và nhà nước Cộng sản Trung Hoa chấp nhận những quyền tự do cơ bản và sinh hoạt chính trị đa đảng trong suốt nhiều tuần lễ từ giữa tháng 5. Tuy sau đó Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh cho quân đội đàn áp vào rạng sáng ngày 3 tháng 6, khiến cho trên vài ngàn người bị tử thương, nhưng biến cố này đã tác động mạnh mẽ trong dư luận, khiến cho Hà Nội phải ra chỉ thị đề cao cảnh giác ở trong nước.

JPEG - 15.1 kb

Biến cố thứ hai là Công Đoàn Đoàn Kết thắng lớn trong cuộc Tổng tuyển cử tự do lần đầu tiên vào hai ngày 4 và 18- 6, sau gần 45 năm độc chiếm quyền lực của đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa Ba Lan (đảng Cộng sản Ba Lan). Kết quả của cuộc Tổng tuyển cử này đã khiến đảng Cộng sản Ba Lan mất độc quyền, Luật sư Tadeusz Mazowieckj của Công Đoàn Đoàn Kết lên cầm quyền với nội các liên hiệp vào ngày 19-8-1989.

Biến cố thứ ba là nội bộ đảng Công Nhân Xã Hội Hung bị phân hóa trầm trọng khiến đảng phải tổ chức đại hội bất

JPEG - 15.4 kb

thường vào ngày 23-6-1989, chính thức từ bỏ con đường chuyên chính vô sản và cho Quốc hội tu sửa hiến pháp, chính thức bãi bỏ chế độ cai trị độc đảng, bỏ tên nước Cộng Hòa Nhân Dân và thay bằng Cộng Hòa Hung Gia Lợi, đồng thời quyết định tổ chức tổng tuyển cử tự do vào hai ngày 26-3 và 8-4-1990. Kết quả của cuộc tổng tuyển cử này giống như Ba Lan là các đảng phái chống chính quyền Cộng sản Hung Gia Lợi đã toàn thắng, với sự ra đời của chính quyền liên minh cánh hữu chấm dứt sự chi phối của chính quyền Cộng sản kéo dài trong 45 năm.

Biến cố thứ tư là cuộc biểu tình trên 200 ngàn người tại thành phố Leipzig vào tối ngày 15-10-1989 đã khiến cho Erich Honecker, Chủ tịch đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa Đức phải từ chức, một tuần sau khi Honecker tổ chức lễ duyệt binh kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Cộng hòa dân chủ Đức. Sự từ chức đột ngột của Honecker làm cho đảng Cộng sản

JPEG - 8.4 kb

Đông Đức rối loạn, phân rã thành nhiều hệ phái, tân chủ tịch đảng là ông Egon Krenz đã không thể điều hành nổi trước quá nhiều áp lực của quần chúng nên đã thoái lui bằng cách ra lệnh phá bỏ bức tường Bá Linh, vào tối 9-11-1989, chấp nhận cho dân chúng tại Đông và Tây Băc qua lại tự do.

Biến cố thứ năm là cuộc tàn sát tại thành phố Timisoara vào ngày 23-11-1989, đã tạo sự phẫn nộ trong dân chúng, dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính quyền Ceaucescu một cách rộng lớn tại thủ đô Bucharest từ ngày 22-12-1989. Ceaucescu ra lệnh giới nghiêm trên toàn quốc nhưng đã quá trễ vì dân chúng bất chấp lệnh giới nghiêm, túa ra đường biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người, đứng đầy khắp các nẻo đường trong thủ đô. Quân đội quay về phía quần chúng và ủng hộ Mặt Trận Cứu Quốc do Ion Iliescu lãnh đạo nên đã cô lập lực lượng công an bảo vệ Ceaucescu. Ngày 23-12-1989, vợ chồng Ceaucescu bị bắt và bị Mặt Trận Cứu Quốc kết án tử hình trong một tòa án đặc biệt diễn ra vào ngày 24-12-1989.

JPEG - 7.5 kb

Trong thời gian xảy ra những biến cố dồn dập tại Đông Âu, đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương đảng tại Sài Gòn từ ngày 15 đến 24-8-1989. Hội nghị đã phải thay đổi nghị trình để bàn về thế đối phó với biến cố Đông Âu trong nội bộ và giải thích lập trường của đảng đối với bên ngoài. Sau đó, Ban chấp hành đã ra một bản thông báo có một số nội dung như sau:

“Công cuộc cải tổ đang diễn ra ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, nhưng một số nước đang gặp khó khăn nghiêm trọng. Ở nước ta, công cuộc đổi mới đã thu được những kết quả ban đầu, trong tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, trước hết là những âm mưu và hành động điên cuồng chống phá lại xã hội chủ nghĩa của bọn đế quốc… Trước những diễn biến phức tạp mới của tình hình, trong một số ít cán bộ đảng viên đã xuất hiện một số tư tưởng lệch lạc, chao đảo. Nếu không sớm ngăn chận và phát hiện, có thể dẫn tới những tác hại không nhỏ. Hội nghị lần thứ 7 BCHTƯ đã phát biểu một số nhiệm vụ về công tác tư tưởng, khẳng định tính chất tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội, bằng những phần tử vững chãi của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Hơn lúc nào hết, chúng ta không được hoài nghi chân lý tất thắng của chủ nghĩa xã hội, chúng ta có trách nhiệm góp phần phấn đấu tích cực của mình vào việc bảo vệ và phát huy những thành quả của chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố khối đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lê.

“Hội nghị lần thứ 7 BCHTƯ nhấn mạnh rằng, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng đang diễn ra gay gắt và phức tạp, đòi hỏi các cấp, các cơ quan chính quyền, các đoàn thể phải luôn luôn tỉnh táo, ý thức, coi trọng công tác tư tưởng, tăng cường lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng. Việc đổi mới sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, bảo đảm tính chủ động kịp thời, tính chiến đấu sắc bén, phục vụ tích cực việc thực hiện các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước, củng cố sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn đảng, thúc đẩy công cuộc đổi mới, khắc phục tâm trạng bi quan mất cảnh giác, uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, chủ động phản kích những luận điệu thù địch”.

Vào lúc đó, đảng Cộng sản Việt Nam coi biến cố Đông Âu chỉ là sự biến thái giai đoạn và vẫn còn tin tưởng tuyệt đối vào thành trì vững chãi của khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo nên mới đưa năm nguyên tắc nhằm xác định lại quan điểm của đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cảnh cáo các đảng viên đang chao đảo, bất mãn và không còn tin tưởng vào thiểu số cán bộ thượng tầng đang nắm giữ quyền lực độc tôn, để tiếp tục cố thủ trong lô cốt giáo điều xã hội chủ nghĩa. Năm nguyên tắc này là:

1- Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. 2- Khẳng định tính khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình cải tổ, cải cách và đổi mới. 3- Nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế. 4- Giáo dục trong đảng và trong nhân dân lòng kiên trì với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc và chính sách đổi mới của đảng. 5- Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.

Trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị, Nguyễn Văn Linh đã chỉ trích gay gắt một số khuynh hướng chủ trương xét lại vai trò lãnh đạo của đảng, đang ngấm ngầm vận động trong hàng ngũ đảng viên. Nguyễn Văn Linh kết tội khuynh hướng này là “đang nhận sự hậu thuẫn và xúi giục của chủ nghĩa đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ. Đó là giấc mơ vô nhân của bọn đại biểu cho chủ nghĩa tư bản khét tiếng, không đội trời chung với chúng”. Ngoài ra, Nguyễn Văn Linh còn dựa vào lý thuyết cực kỳ lạc hậu trước đây, để hô hào đảng viên kiên định theo đường lối xã hội chủ nghĩa: “Trước đây, trong một thời gian dài khi phân tích tình hình thế giới, chúng ta đều thống nhất nhận định: Thế giới có hai phe, phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Có bốn nguyên tắc cơ bản, đó là mâu thuẫn giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản trong các nước tư bản chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và phong trào giải phóng dân tộc với chủ nghĩa đế quốc; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau. Vậy mà sau đó, trong một thời gian dài, chúng ta không còn nhất trí nữa. Phải chăng những luận điểm đó đã lỗi thời? Hoàn toàn không phải như vậy? Tôi cho rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng của các đảng viên đã không thông suốt chủ nghĩa Mác-Lê vĩ đại, và sai lầm trong công tác tư tưởng. Trên thực tế, chừng nào nào còn chủ nghĩa đế quốc, chừng nào cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, thì những luận điểm niêm yết nói trên vẫn giữ nguyên giá trị”.

JPEG - 14 kb

Khai triển những quan điểm trên, ngày 28-8-1989, Nhật báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam đã viết một bài quan điểm về chính phủ Tadeusz Mazowieckj của Ba Lan, có một đoạn đáng chú ý như sau: “Thực chất sự kiện chính trị đang diễn ra ở Ba Lan là Công Đoàn Đoàn Kết với sự tiếp tay của các thế lực đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ, đang làm cuộc đảo chính phản cách mạng ở Ba Lan”. Trong đoạn kết của bài này, báo Nhân Dân còn tin tưởng là “giai cấp công nhân và nhân dân lao động Ba Lan sẽ đập tan cuộc đảo chánh phản cách mạng”. Trong khi đó, ngày 29-8, Thành Ủy Hà Nội đã huy động nhân sự trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức ngoại vị nằm trong Mặt trận tổ quốc như Công đoàn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản.., tổ chức cuộc biểu tình ủng hộ đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (đảng Cộng sản Ba Lan). Đoàn biểu tình đã phổ biến bản thông cáo kết án Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan là nguyên nhân đưa đến cuộc khủng hoảng chính trị tại Ba Lan và kêu gọi đảng Cộng sản Ba Lan phải “cương quyết đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng của các thế lực thù địch, giữ vững thành quả cách mạng. Những thế lực thù địch này đã nhận sự tiếp tay của đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ”.

Mặt khác, trong hội nghị quy tụ 200 cán bộ phụ trách công tác tư tưởng tại Sài Gòn, Trần Trọng Tấn, Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đã lên tiếng chỉ trích gay gắt Hoa Kỳ và Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan, đồng thời khẳng định rằng đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không chấp nhận để tự rơi vào một tình trạng tương tự. Trần Trọng Tân đã phát biểu rằng: “Chúng ta bày tỏ mối quan tâm sâu xa trước tình hình chính trị tại Ba Lan, cực lực lên án những thế lực phản động chống lại chủ nghĩa xã hội tại Ba Lan. Những lực lượng phản động này núp dưới nhãn hiệu của cái gọi là Solidarity, đang nhận sự tiếp tay của chủ nghĩa đế quốc mà đặc biệt là đế quốc Mỹ, để âm mưu thực hiện một cuộc đảo chính phản cách mạng. Chúng ta chia xẻ những khó khăn của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, khẳng định và tin tưởng rằng với kinh nghiệm sẵn có trong quá khứ, đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan sẽ chiếm lại ưu thế chính trị, san bằng mọi thế lực phản động chống lại chủ nghĩa xã hội, và tiếp tục bước lên con đường xã hội chủ nghĩa đã vạch ra. Chúng ta cương quyết tiến hành công cuộc đổi mới trong nước, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa anh em”.


JPEG - 6.3 kb

Tuy công kích và mạt sát Công Đoàn Đoàn Kết, nhưng khi nghe tin Quốc hội Ba Lan chính thức tấn phong Luật sư Tadeusz Mazowieckj của Công Đoàn làm Thủ tướng, Đỗ Mười, lúc bây giờ là Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng và Nguyễn Cơ Thạch (Bộ trưởng Ngoại giao) đã phải đánh điện văn chúc mừng tân Thủ tướng Ba Lan. Phản ứng “lạc điệu” về biến cố Ba Lan đã làm cho Trung ương đảng thấy bị hố nên sau đó, các cán bộ cao cấp và báo chí của đảng không còn dám có phản ứng chống đối mạnh mẽ như đối với biến cố Ba Lan. Đến ngày 2-9-1989, trong bài diễn văn đọc trong ngày “Quốc Khánh”, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói xa xôi đến những thay đổi đang xảy ra ở Đông Âu: “Chúng ta thấy rõ đây là cơn đau đẻ của sự sinh thành”; nhưng rồi cũng đã cực lực lên án tư tưởng đa nguyên, đa đảng như sau:

“Chúng ta không cho phép bất cứ lực lượng nào thành lập các đảng đối lập, để chống chính quyền nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội. Một nền dân chủ đích thực hay một nền dân chủ hình thức không tùy thuộc ở chỗ có một đảng hay nhiều đảng, vấn đề cơ bản là nền dân chủ đó phục vụ tầng lớp nào và giai cấp nào trong xã hội. Đó là điều vỡ lòng của nhận thức Mácxít-Lêninít. Nền dân chủ của chúng ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ đối với nhân dân lao động và chuyên chính đối với kẻ thù của nhân dân. Vì vậy, nền dân chủ đó về bản chất như Lênin nói: Gấp triệu lần dân chủ tư sản”… Dân chủ không phải muốn nói gì thì nói, viết gì thì viết, làm gì thì làm, bất chấp hậu quả ra sao. Đó thực chất là hành động vô chính phủ. Ấy vậy mà khi đảng ta uốn nắn lại những lệch lạc đó, có một số người cho rằng làm như vậy là hạn chế dân chủ, là cánh cửa dân chủ chưa kịp mở đã vội đóng lại, v.v…”

Ngày 26- 9, các cơ quan tuyên truyền của đảng đã đồng loạt loan tải bài viết “Bạo lực cách mạng và Bối cảnh mới của đấu tranh giai cấp” của Trung tướng Trần Xuân Cường, thuộc ban giảng huấn Học viện Nguyễn Ái Quốc. Mục tiêu của bài viết là để phân tích những biến chuyển xảy ra ở Đông Âu là do “chiến lược tiến chiếm hòa bình” (lúc này Hà Nội chưa dùng nhóm từ Diễn Biến Hòa Bình) của các nước Tây phương đối với khối xã hội chủ nghĩa, để kêu gọi toàn thể đảng viên phải cảnh giác, sẵn sàng dùng “bạo lực” để bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trần Xuân Cường đã viết “Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa đế quốc tăng cường sử dụng các thủ đoạn tiến chiếm hòa bình, để làm mục chủ nghĩa xã hội từ bên trong. Song ít nhất, chúng cũng đã thực sự ba lần thất bại trong thủ đoạn chiến lược này: ở Hung năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968 và Ba Lan năm 1956 và 1980… Ngày nay, chúng vẫn tiếp tục âm mưu đó trong những điều kiện mới. Chúng đã đổi mới và hoàn thiện chiến lược và sách lược tiến chiếm hòa bình, trên cơ sở rút kinh nghiệm những lần thất bại trước đây… Ngày nay, đảng và nhà nước ta sau khi chuẩn bị đánh lại sự xâm lược vũ trang từ bên ngoài, thì đồng thời cũng lùi vào cái thế đánh bại âm mưu tiến chiếm hòa bình từ bên trong”.

JPEG - 38 kb

Đầu tháng 10, Nguyễn Văn Linh dẫn một phái đoàn sang Đông Đức tham dự buổi lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Đức tổ chức vào ngày 7-10-1989. Tại đây, Nguyễn Văn Linh và phái đoàn cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng kiến hàng loạt các cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ của quần chúng, đưa đến sự từ chức của Erich Honecker vào ngày 18-10, và sự sụp đổ bức tường Bá Linh vào ngày 9-11. Đông Đức là cái phao cứu vớt sau cùng, nơi mà phái đoàn Nguyễn Văn Linh có thể đem về một “cẩm nang” giải quyết những khó khăn trong nước, thì cũng là nơi mà sự sụp đổ xảy ra nhanh nhất. Biến cố Đông Đức đã làm cho Nguyễn Văn Linh choáng váng, trở về Hà Nội trong tình trạng suy nhược và cáo bệnh không tiếp ai trong một thời gian. Mãi cho đến ngày 16-12-1989, Nguyễn Văn Linh mới xuất hiện trong Hội nghị của Thành ủy Sài Gòn, nhấn mạnh đến công tác tư tưởng trong hàng ngũ đảng viên và nhiệm vụ “bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, trước sự tan rã của các đảng Cộng sản anh em tại Đông Âu. Nhưng khi nghe tin nhà độc tài Ceaucescu bị Mặt Trận Cứu Quốc tuyên án tử hình vào ngày 24-12-1989, Nguyễn Văn Linh quyết định ở ẩn tại Sài Gòn không tiếp bất cứ ai cho đến đầu năm 1990, với lý do là bận theo dõi tình hình Đông Đức.

Ủy Viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách Bị Khai Trừ Vì Cổ Võ Đa Nguyên

Đại hội đảng kỳ VI vào tháng 12-1986, Trần Xuân Bách được đưa vào Bộ chính trị và Ban bí thư. Trách vụ chính của Trần Xuân Bách là tạo quan hệ với hai nước Lào và Căm Bốt, giữ chặt quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng Cộng sản và công nhân chưa giành được chính quyền, chỉ đạo Ban đối ngoại Trung ương và Ban Việt kiều Trung ương (sau ngày đổi tên là Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài do Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin làm chủ nhiệm). Ngoài ra theo ông Bùi Tín, tác giả tập sách Hoa Xuyên Tuyết cho biết là từ năm 1987, Trần Xuân Bách được Bộ chính trị giao công tác thông tin cho Bộ chính trị, nghĩa là thu thập tình hình trong và ngoài nước, đọc các sách báo tin tức từ nước ngoài để tổng hợp và báo cáo lại cho các ủy viên trong Bộ chính trị. Trong tư thế này, Trần Xuân Bách đã trực tiếp sử dụng các cơ quan thông tin của Ủy ban khoa học xã hội, Bộ ngoại giao và Thông tấn xã, lập ra một ban “tư vấn” với một số cán bộ có khả năng ngoại ngữ, giúp Bách tổng hợp những tin tức sốt dẻo nhất, từ đó đề xuất những ý kiến để hình thành chính sách. Do những nguồn thông tin phong phú, mới mẻ và kịp thời nên đã làm cho quan điểm “giáo điều” của Trần Xuân Bách bị thay đổi.

JPEG - 6.6 kb

Trong bài tham luận đọc ở Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương vào tháng 8-1989, Trần Xuân Bách đã đề nghị đảng phải đổi mới bằng đi hai chân: chân kinh tế thị trường với việc mở rộng kinh tế hàng hóa, phát triển thị trường và chân chính trị là đi mạnh vào việc áp dụng dân chủ rộng rãi, chấp nhận đa nguyên (ý niệm đa nguyên mà Trần Xuân Bách sử dụng lúc này mang ý nghĩa công nhận nhiều khuynh hướng trong xã hội chứ chưa hề có ý nghĩa công nhận đa đảng). Ý kiến của Trần Xuân Bách bị chống đối, bị coi là quá khích và hữu khuynh. Trong một cuộc phỏng vấn về vấn đề Căm Bốt của Ký giả Hiebert, tờ Viễn Đông Kinh Tế (Far Eastern Economic Review) vào tháng 12-1989, Trần Xuân Bách đã nói: “Sau mười năm chiến thắng, chúng tôi đã thấy nhiều lỗi lầm và nhiều sự thất bại. Chúng tôi cố gắng kỹ nghệ hóa nhưng chưa có được những nền tảng vững chắc. Những cơ cấu quản trị cũ kỹ đã làm đình trệ sự đổi mới về kinh tế này”. Đến ngày 5-1-1990, trong một buổi thảo luận về chủ nghĩa xã hội tại Ủy ban Khoa Học và Xã Hội, Trần Xuân Bách đã đọc một bài diễn văn đề cập về “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì? “, với một vài nội dung đáng chú ý: “… Một điểm rất thống nhất của toàn thể xã hội, toàn thể nhân dân hiện nay là trăn trở với tình hình thế giới và trong nước, muốn đưa dân tộc ta tiến lên. Trong đảng Cộng sản Việt Nam, nếu ai bình chân như vại trước tình hình hiện nay là thiếu trách nhiệm. Chủ nghĩa xã hội thế giới đang đứng trước những thử thách lớn và những triển vọng lớn cũng là do thời đại. Tất cả các dân tộc đều trong hoàn cảnh bức xúc, cả chủ nghĩa tư bản, cả chủ nghĩa xã hội, cả loài người đều như vậy. Có hai lý do của sự bức xúc:

-  Một là chỉ còn mười năm nữa là bước sang thế kỷ XXI, dân tộc nào bị tụt hậu vào giữa thế kỷ XXI là nguy hiểm vô cùng, vì đây là thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật, của bùng nổ thông tin và giao lưu quốc tế. Xử lý vấn đề này không thể một nhóm, một người nào làm được. Cả dân tộc phải chuẩn bị và làm công việc này.

-  Hai là diễn biến chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa đang căng thẳng, phức tạp và có tính dây chuyền. Vì sao có tính dây chuyền? Vì ta ở trong thời đại thông tin, không thể bưng bít thông tin được. Ai bưng bít thông tin là lạc hậu nhất. Phải cung cấp thông tin đầy đủ để người ta lựa chọn. Không thể nghĩ rằng ở châu Âu thì sôi sục, còn ở châu Á thì ổn định. Không thể chủ quan cho mình là ổn định. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều nằm trong sự vận động để tiến lên, đều có những mâu thuẫn lớn, đều phải phá vỡ sức đè nén của những cái cũ, không anh nào có thể yên trí mình ổn định được. Có khi tuần này còn huênh hoang, tuần sau đã bị đảo lộn.

Tình hình chung hiện nay là biểu hiện của tư duy khoa học đang lấn át tư duy giáo điều, tư duy khoa học đang thay thế tư duy giáo điều. Lịch sử đang thay đổi mạnh. Mác trao cho ta vũ khí biện chứng duy vật và duy vật lịch sử, chớ không trao cho ta Kinh Thánh! Việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử đương thời của Mác nói”.

Bài nói chuyện này đã được đăng lên tờ Tạp chí Cộng sản số tháng 1-1990. Những quan điểm của Trần Xuân Bách đã công khai ra bên ngoài, tạo một sự quan tâm sâu rộng trong giới trí thức xã hội chủ nghĩa vào lúc đó. Đến ngày 19-1-1990, trong một cuộc phỏng vấn do một phóng viên của đài phát thanh Hung Gia Lợi thực hiện, khi được hỏi cảm tưởng về những biến chuyển chính trị ở các nước Đông Âu, Trần Xuân Bách đã nói là: “mỗi quốc gia có một đường lối riêng để phát triển xã hội của họ. Việt Nam rất kính trọng những chọn lựa mà các nước xã hội chủ nghĩa anh em đang theo. Việt Nam ủng hộ những phát triển về một hệ thống dân chủ ở những nước xã hội đó”. Trong một cuộc hội thảo vào ngày 1-2-1990, tổ chức tại Học viện Nguyễn Ái Quốc (nay đổi là Học viện Chính trị Quốc gia) nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam, Trần Xuân Bách đã đề xướng đảng phải thay đổi thì mới trị được cái “bệnh” của đảng.

Những phát biểu của Trần Xuân Bách càng ngày càng “xé rào” ra khỏi 6 nguyên tắc mà Trung Ương Đảng đã quy định hồi năm 1989, khiến cho một số ủy viên Bộ chính trị thấy khó chịu. Bộ chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam vào giai đoạn này gồm có 13 ủy viên chính thức là Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Xuân Bách, Nguyễn Thanh Bình, Đoàn Khuê, Mai Chí Thọ và một uỷ viên dự khuyết là Đào Duy Tùng. Do yêu cầu của Đào Duy Tùng và được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Ủy viên bộ chính trị Nguyễn Đúc Tâm, Trưởng ban tổ chức Trung ương đảng, Bộ chính trị đã họp khẩn cấp vào ngày 16-2-1990. Tại cuộc họp này, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê… đã chỉ trích quan điểm của Trần Xuân Bách là nguy hiểm, và Bộ chính trị dự kiến sẽ đề nghị Trung ương đảng cách chức Ban bí thư và Bộ chính trị, nhưng còn giữ vai trò Trung ương đảng.

Tuy nhiên, khi vấn đề của Trần Xuân Bách được đưa ra thảo luận trong Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa VI, họp từ ngày 12 đến 27-3-1990, đa số các Bí thư tỉnh và phe giáo điều đã phê phán Trần Xuân Bách không đáng là đảng viên, vô kỷ luật, vô tổ chức trong khi đảng cần sự nhất trí, và thống nhất để vượt qua những khó khăn truớc các diễn biến phức tạp tại Đông Âu. Cuối cùng Hội nghị đã có khoảng 2/3 Ủy viên Trung ương biểu quyết cách chức Trần Xuân Bách ra khỏi Trung ương đảng, trong khi đó có đến 1/3 Ủy viên chống lại quyết định này. Sau đó, Trung ương đảng dưới chữ ký của Nguyễn Văn Linh đã phổ biến bản thông báo của Hội nghị nhấn mạnh đến yêu cầu giữ vững sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội, trước hết là ổn định về chính trị”, loại Trần Xuân Bách ra khỏi mọi cương vị lãnh đạo của đảng, với lý do “vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu”.

Cuộc Đấu Tranh Của Ông Nguyễn Hộ và Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ

JPEG - 4.8 kb

Trong khi Trung Ương Đảng Cộng sản lúng túng đối phó vấn đề Trần Xuân Bách chưa xong, thì lại xảy ra sự chống đối một cách quyết liệt của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ trong cùng thời gian. Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ, được thành lập bởi một ban chấp hành gồm 24 người, từng là cán bộ đảng viên cao cấp trong thời chiến tranh Việt Nam trước năm 1975, do ông Nguyễn Hộ đứng đầu. Đơn xin thành lập đã gửi cho Thành ủy Sài Gòn từ năm 1985 nhưng không ai dám quyết định mãi cho đến khi Lê Đức Thọ, Trưởng Ban tổ chức Trung Ương đảng đồng ý thì Thành phố Sài Gòn mới cấp giấy phép cho hoạt động vào ngày 16-5-1986. Theo ông Đỗ Trung Hiếu, một thành viên của tổ chức này thì Câu lạc bộ hoạt động và phát triển từ năm 1986 cho đến tháng 3-1990, lúc ông Hộ phải bỏ Sài Gòn đi trốn vì bị đàn áp. Trong khoảng thời gian 4 năm này, Câu lạc bộ đã có một số giai đoạn hoạt động đáng chú ý.

Giai đoạn I: từ ngày 16-5-1986 cho đến ngày 3-4-1988, tập trung vào việc xây dựng và phát triển Câu lạc bộ với số hội viên lên đến 20 ngàn người tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Vào lúc đó, Câu lạc bộ được coi là tổ chức quần chúng không do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phát triển nhanh và mạnh nhất với nhiều hoạt động đa dạng.

Giai đoạn II: từ ngày 3-4-1988 cho đến 23-3-1990, tập trung vào cao trào đấu tranh đòi đổi mới, chống tham nhũng quan liêu bảo thủ. Đây là thời kỳ Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, tung ra chính sách đổi mới và cởi trói tư duy nên Câu lạc bộ đã lập ra Ban Tư Vấn Chính Trị vào ngày 3-4-1988 để phát động hai nỗ lực; 1/Chống tham nhũng; 2/Tổ chức các sinh hoạt chính trị ủng hộ đổi mới. Để xây dựng Câu lạc bộ thành một lực lượng giữ vai trò chính trị xã hội thật của nó, ông Nguyễn Hộ và ban thường vụ của Câu lạc bộ nộp đơn xin đổi tên thành Hội Truyền Thống Kháng Chiến Cũ nhưng chưa được Thành ủy chấp thuận, ra đặc san Truyền thống Kháng Chiến để quảng bá hoạt động nên thu hút đông đảo sự quan tâm và hưởng ứng của đồng bào mọi giới. Trong thời kỳ này, Hội đã tổ chức được những sinh hoạt đáng chú ý như:

Ngày 3-6-1988, tổ chức hội thảo, thảo luận công khai về việc đề cử chủ tịch hội đồng bộ trưởng mới quy tụ 200 cán bộ trung cao cấp, sĩ quan cấp tướng của quân đội đến dự. Kết thúc buổi hội này là một bản kiến nghị gửi Trung ương đảng và quốc hội về việc chọn lựa chủ tịch Hội đồng bộ trưởng không theo kiểu bè phái, áp đặt phi dân chủ. Ngày 11-6-1988, 44 thành viên của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ đứng tên trong một kiện nghị gửi Trung ương đảng yêu cầu kiểm điểm bộ chính trị và ban bí thư về việc thực hiện Nghị quyết VI đã vi phạm nguyên tắc dân chủ trong nội bộ đảng. Đây là một loại kiến nghị thách đố sự lãnh đạo tối cao của đảng.

JPEG - 8 kb

Ngày 11-6-1989, Câu lạc bộ đã tổ chức một buổi hội thảo về Quyền tự do dân chủ của công dân và những vấn đề cấp bách khác hiện nay của xã hội, và sau đó đã có 75 thành viên ký tên vào một kiến nghị gửi cho đại biểu quốc hội khóa VIII, đề nghị việc ’xem xét, đối chiếu, và có thái độ đối với một số hành động vi hiến của một số cơ quan nhà nước’. Trong đó nêu đích danh Bộ Thông Tin đã vi phạm điều 67 của hiến pháp về tự do báo chí, đã đóng cửa một loạt các tờ báo, chỉ vì các báo này dám nói thẳng, nói thật, chống tiêu cực quan liêu, bảo thủ, cửa quyền. Ngày 18-9-1989, Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ tổ chức hội thảo về ’tiến trình đổi mới toàn bộ các mặt’ quy tụ gần 100 cán bộ trung cao cấp, tướng tá tham dự. Tại cuộc hội thảo này, nhiều cán bộ cao cấp đã lên phê phán các sai lầm của đảng như Thiếu tướng Tô Ký, Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, Cán bộ lão thành Huỳnh Văn Tâm, Nhà giáo Nguyễn Văn Hợi, Thượng tướng Trần Văn Trà, Nhà báo Hồ Ngọc Nhuận,… Những phát biểu của các nhân vật nói trên đã được chính ông Dương Đình Thảo và Võ Thành Công thay mặt thành ủy Sài Gòn lên xác nhận là đúng sự thật, gây ra một sự bàn tán sôi nổi trong dư luận thành phố Sài Gòn vào lúc đó.

Ngày 13-11-1989, Câu Lạc Bộ tổ chức hội thảo đề tài ’Tìm hiểu nguyên nhân trì trệ hiện nay trong việc đổi mới’ với hơn 700 cán bộ, trung cao cấp, tướng tá quân đội, trí thức các đại học tham dự. Tại Hội thảo này ông Nguyễn Hộ đã thông báo rằng Thành uỷ Sài Gòn ra quyết định không cho in tờ Truyền Thống Kháng Chiến và đòi dẹp cuộc hội thảo, khiến cho toàn thể cử tọa tham dự rất bất mãn và phản đối kịch liệt những việc làm sai trái của Thành ủy Sài Gòn. Ngày 7-1-1990, Câu lạc bộ đã tổ chức hội thảo suốt ngày tại nhà Văn hóa Lao động tại Sài Gòn về chủ đề ’công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu, tình hình đổi mới tại Việt Nam’. quy tụ hàng ngàn người tham dự. Đây có thể coi là hội thảo quy mô nhất của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ và đa số các diễn giả như Giáo sư Trần Bạch Đằng, Thượng Tướng Trần Văn Trà, Nhà báo Nguyễn Văn Trấn, Cán bộ lão thành La Văn Lâm, nhà báo Kim Tinh và rất đông cán bộ, tướng tá quân đội tham dự phát biểu. Đa số đều tán đồng công cuộc đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu và cho rằng dân chủ là phong trào tràn ngập khắp thế giới. Dân chủ là đặt quyền lợi của dân lên trên hết. Nếu đảng Cộng sản Việt Nam không đổi mới, không có dân chủ thì dân sẽ thay đảng làm cuộc đổi mới, thiết lập dân chủ. Đặc biệt trong cuộc hội thảo này đã đi đến một kiến nghị quan trọng đòi hỏi đảng và nhà nước cho: 1/Lập hội cựu kháng chiến một cách chính thức trên toàn quốc; 2/Tờ Truyền thống kháng chiến được tái bản.

Có thể nói cuộc hội thảo hôm mồng 7-1-1990 của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ đã làm cho Bộ chính trị và Trung ương đảng lo sợ. Vì thế mà bộ chính trị đã chỉ thị cho Thành ủy Sài gòn: 1/Cấm không cho Câu lạc bộ tổ chức hội thảo; 2/Cấm Câu lạc bộ không được ra đặc san Truyền Thống; 3/Chỉ đạo ban chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ phải ‘đấu tranh’ nội bộ, loại những phần tử quá khích ra khỏi ban lãnh đạo, cụ thể là hai ông Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng; 4/Giải thể các tổ chức phụ thuộc như là ban liên lạc Thanh niên sinh viên cựu kháng chiến; 5/Dẹp bản tin của Ban liên lạc thanh niên sinh viên. Ngày 4-3-1990, Thành ủy Sài Gòn đã cử Nguyễn Văn Hạnh tham dự cuộc họp với ban chủ nhiệm của Câu lạc bộ để kiểm điểm hai ông Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng theo yêu cầu của Thành ủy. Cuộc họp gồm 18 người mà đa số là những người từ lúc thành lập Hội cho đến nay chưa hề xuất hiện. Cuộc họp đã biến thành cuộc đấu tố, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Văn Hạnh để tố cáo ông Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng vi phạm 4 khuyết điểm: 1/Đi chệch mục tiêu ban đầu; 2/Mất dân chủ nghiêm trọng; 3/Tổ chức và chuẩn bị đại hội không tốt, không đại diện cho những người kháng chiến chân chính; 4/Phát hành tài liệu phạm pháp. Hai ông Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng đã phản đối gay gắt và bỏ ra về. Nguyễn Văn Hạnh và những người của Thành ủy Sài gòn ở lại tiếp tục họp, bỏ phiếu bất tín nhiệm hai ông Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng, bầu người của Thành ủy lên thay thế ban chủ nhiệm Câu lạc bộ.

GIF - 1.9 kb

Ông Nguyễn Hộ đã ra thông cáo phản đối và tuyên bố ông vẫn là chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ. Ngày 21-3-1990, ông Hộ rời Sài Gòn lên vùng nông thôn Sông Bé ở ẩn tại nhà những cán bộ của ông trong phong trào và cũng chính ngày này ông tuyên bố ly khai khỏi đảng Cộng sản. Sự kiện ông Nguyễn Hộ tuyên bố ly khai khỏi đảng đã được ông Tạ Bá Tòng thông báo cho ký giả Mike Morrow của tạp chí Asiaweek tại Hồng Kông và sau đó đài BBC loan tải rộng rãi trong đêm 26-3-1990, đã khiến cbo Trung ương đảng tức giận nên đã phải ra thông báo lên án một số người lãnh đạo trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ là có hành động chống đảng, đồng thời chỉ thị cho Bộ nội vụ (tức Bộ Công an bây giờ) tung chiến dịch khủng bố. Ngày 23-4-1990, công an Bộ nội vụ chận bắt ông Đỗ Trung Hiếu, thư ký của Hội Truyền Thống tại Đà Nẵng. Ngày 29 tháng 4, công an Sài Gòn bắt giữ ông Tạ Bá Tòng và ông Hồ Hiếu. Ngày 5-5-1990, Thành ủy Sài Gòn ra văn thư tố cáo những khủng hoảng trong Hội Truyền Thống Kháng Chiến là do ‘âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ và bọn phản động’ khuynh đảo để chống phá đảng và nhà nước.

Ngày 11-6-1990, Võ Văn Kiệt qua trung gian của Nguyễn Văn Hoàng, cháu ruột của ông Nguyễn Hộ dàn xếp lên Phú Giáo tỉnh Sông Bé để gặp và thuyết phục ông Nguyễn Hộ không nên tiếp tục chống đảng. Cuộc gặp diễn ra từ 7 giờ 30 sáng cho đến 11 giờ và có cả thư của Võ Trần Chí (Bí thư Thành ủy Sài Gòn) gửi ông Hộ; nhưng ông Hộ đã cương quyết chống đến cùng nên cuộc gặp thất bại. Hai tuần sau, ông Kiệt có đề nghị gặp ông Nguyễn Hộ một lần nữa gần Sài Gòn nhưng ông Hộ chỉ gửi thư cho ông Kiệt, từ chối gặp. Ngày 30-7-1990, Ban tổ chức tỉnh uỷ Sông Bé đã tổ chức một buổi đấu tố các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng và nói xấu về các hoạt động của Câu lạc bộ, khiến cho bà Nguyễn Thị Kỳ Hương, tỉnh ủy Sông Bé bất mãn, không kềm chế được nên đã cởi quần trùm lên đầu Trưởng ban tổ chức tỉnh Sông Bé. Tất cả các quan chức của Tỉnh phải bỏ chạy. Dùng thủ đoạn bôi nhọ và triệt hạ uy tín của ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng không được nên Cộng sản Việt Nam đã phải tung đòn cuối cùng là bắt giữ các nhân vật đầu não của Câu Lạc Bộ.

Ông Nguyễn Hộ bị bắt vào lúc 7 giờ sáng ngày 7-9-1990 tại tỉnh Sông Bé. Ông bị đưa về tạm giam ở K4 Xuân Lộc và sau đó giam ở nhà nghỉ Thành Ủy Sài Gòn 6 tháng và bị quản thúc tại gia 2 năm. Ông Tạ Bá Tòng và Đỗ Trung Hiếu bị giam ở Bộ nội vụ Sài Gòn hơn nửa năm và bị quản thúc tại gia hơn một năm rưỡi. Ông Hồ Hiếu bị giam ở Phan Đăng Lưu 6 tháng và bị quản thúc tại gia một năm rưỡi. Ngoài ra, công an còn bắt giam hàng trăm thành viên của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ tại Sài Gòn, Tiền Giang, Hậu Giang, Sông Bé…. Tất cả những người này đều chung một số phận là bị ghép tội chống đảng nên bị kiểm điểm, bị kỷ luật, bị cách chức, bị thôi việc. Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ bị Thành ủy Sài Gòn chiếm đoạt và giải tán sau khi đảng Cộng sản Việt Nam dựng ra Hội Cựu Chiến Binh vào năm 1994.

JPEG - 5.5 kb

Sự phản kháng của ông Nguyễn Hộ và cuộc đấu tranh của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ tại miền Nam là một sự quật khởi đầy bất ngờ của những cán bộ, đảng viên cộng sản gốc miền Nam, đối với lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ, ông Tạ Bá Tòng, ông Đỗ Trung Hiếu, ông Hồ Hiếu… là những nhân tố chính, đã khai thác sự tập hợp nhóm cựu chiến binh miền Nam để đòi hỏi những cải cách dân chủ khi biến cố Đông Âu xảy ra. Tuy cuộc đấu tranh của những người cựu chiến binh miền Nam bị thất bại sau khi Thành ủy Sài Gòn tổ chức ‘đảo chánh’ để chiếm Câu Lạc Bộ vào năm 1990; nhưng ông Nguyễn Hộ và nhiều người khác đã tiếp tục đấu tranh và gây rất nhiều khó khăn cho Hà Nội cho đến năm 1996. Chính tinh thần đấu tranh vì dân chủ và chống bất công của những người cựu chiến binh tại miền Nam đã tạo một tác động lớn lên nhiều thành phần chiến binh khác trên cả nước. Nhờ vậy mà tinh thần này vẫn tiếp tục duy trì nơi nhiều cựu chiến binh ở miền Bắc và nhiều nơi ở miền Trung, cụ thể là cuộc nổi dậy của toàn thể nông dân tỉnh Thái Bình chống sưu cao thuế nặng kéo dài trong nhiều tháng, là do lực lượng cựu chiến binh tại đây đứng ra tổ chức và lãnh đạo. Do đó mà ngày nay lực lượng cựu chiến binh đã là một nhân tố có thể sẽ góp phần trong việc châm ngòi cho các phong trào đấu tranh quần chúng trong thời gian tới.


Học Tập – Chấn Chỉnh Nội Bộ Hầu Đối Phó Với Các Diễn Biến Tại Đông Âu

Sau khi khai trừ Trần Xuân Bách, Bộ chính trị đã ra chỉ thị 60 về “Nhiệm vụ giữ gìn an ninh quốc gia trong tình hình mới”, và tổ chức các buổi học tập trong nội bộ để khai triển nội dung Nghị quyết 8 là: “Tiếp tục duy trì sự lãnh đạo của đảng, phủ nhận chính trị đa nguyên, tiếp tục chính sách đổi mới tăng cường công tác học tập tư tưởng để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Từ ngày 10 đến ngày 13-4-1990, Ban tổ chức trung ương đảng đã tổ chức hội nghị gồm những cán bộ chủ chốt trong các cơ quan hành chánh trung ương, tỉnh, thành. Sau đó, từ ngày 16 đến 24-4, Quân ủy trung ương đã tổ chức hội nghị gồm các chính ủy cao cấp trong quân đội. Nội dung chính của các Hội nghị là để “các cán bộ nắm vững tình hình biến động thế giới, chỉ đạo những biện pháp đẩy lùi các thế lực phản động trong chiến lược tiến công xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Từ ngày 7 đến 10-5, Bộ nội vụ (nay đổi thành Bộ công an) đã triệu tập hội nghị gồm các cán bộ ngành an ninh, công an. Một trong những vấn đề nóng bỏng được đề cập trong hội nghị này là củng cố lại đội ngũ công an và mật vụ để “sẵn sàng chiến đấu trong tình hình và nhiệm vụ mới”, kế đến là vấn đề tinh thần, tư tưởng của đảng viên trong bộ máy an ninh. Song song với việc hướng dẫn công tác học tập nhằm chấn chỉnh tư tưởng trong nội bộ, Ban bí thư còn ra chỉ thị 7 điểm vào ngày 9-7-1990, kêu gọi các cấp đảng ủy mở chiến dịch “cải thiện quan hệ giữa đảng và quần chúng”, và thanh lọc hàng ngũ đảng viên, với nội dung: “Kiên quyết đưa ra khỏi đảng những đảng viên vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức, kỷ luật, thoái hóa, biến chất, tham ô lớn… Những đảng viên trình độ tác vụ quá thấp, năng lực hoạt động kém, không còn đắc dụng là đảng viên thì cũng không để ở trong đảng. Xử lý nghiêm minh theo kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước đối với những đảng viên có hành vi tiêu cực…”

GIF - 35 kb

Vào giai đoạn đó, tuy Trung ương đảng phổ biến rất nhiều tài liệu, nhưng chú ý nhất là tập tài liệu “Bảo vệ an ninh chính trị và tư tưởng trong giai đoạn hiện nay” do Nguyễn Quang Phòng soạn thảo, nhà xuất bản Sự Thật phát hành tháng 11-1990, được sử dụng học tập trong nội bộ. Qua nội dung của tài liệu này, Nguyễn Quang Phòng dựng lên một kẻ thù mới, tên của nó là “đa nguyên đa đảng” do các thế lực đế quốc cổ võ theo lối “tiệm tiến hòa bình” như sau:

“Âm mưu và thủ đoạn phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đối với cách mạng nước ta nằm trong âm mưu chung chống phá các nước xã hội chủ nghĩa của chúng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đặc thù của nước ta, các thế lực thù địch cũng có những âm mưu và thủ đoạn riêng. Để hiểu đầy đủ âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch, chúng ta tìm hiểu âm mưu của chúng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả hoàn cảnh xuất hiện những âm mưu đó. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, âm mưu nói trên của chủ nghĩa đế quốc trước hết là thay đổi chiến lược chống phá, từ chiến lược “ngăn chặn” trước đây, chuyển thành chiến lược “vượt trên ngăn chặn” (Beyond containment). Từ sau đại chiến thế giới thứ hai, các Tổng thống Mỹ thi hành chiến lược “ngăn chặn”, nhằm hạn chế việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô. Chiến lược “vượt trên ngăn chặn”mà Bu-sơ nêu ra là sự tiếp tục phát triển chiến lược “ngăn chận” nhưng “mạnh bạo, lớn hơn bất kỳ một chiến lược nào trước đây”, như Bu-sơ đánh giá. Chiến lược “ngăn chặn” chủ trương dùng các biện pháp đối đầu về quân sự, cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế để kềm chế “sự bành trướng” của Liên Xô. Còn chiến lược “vượt trên ngăn chặn” tuy vẫn kế thừa, phát triển và tiếp tục thực hiện sự “kiềm chế” của chiến lược “ngăn chặn”, nhưng sử dụng những biện pháp toàn diện hơn, tổng hợp hơn, sâu sắc hơn và tế nhị hơn, thích ứng với những thay đổi trên thế giới, để ngăn chặn và trực tiếp phá hoại chủ nghĩa xã hội từ bên trong.

“Diễn biến chính trị ở các nước Đông Âu là thủ đoạn “thẩm thấu hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đi từ những giai đoạn cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, đối đầu về quân sự. Chúng vừa gây sức ép từ bên ngoài, vừa xây dựng lực lượng chống chủ nghĩa xã hội, và hỗ trợ cácphần tử bất mãn, cơ hội hữu khuynh từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, gây mất ổn định về chính trị, rối ren về kinh tế và xã hội. Chúng cố vũ các khuynh hướng tự do- dân chủ tư sản và dân tộc hẹp hòi, khuyến khích tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế. Chúng dùng viện trợ về kinh tế với điều kiện làm cho các nước này lệ thuộc vào các nước tư bản. Chúng cổ vũ các khuynh hướng đa nguyên chính trị, đa đảng, khuyến khích hình thành các đảng đối lập với đảng cộng sản. Đặc biệt, chúng tập trung mũi nhọn đả kích vào các đảng cộng sản và công nhân, vào các lực lượng công an và quân đội”.

“Trước đây chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn ở ngoại vi, không cho ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa tác động tới các nước khác, nhất là tới các nước thế giới thứ ba. Ngày nay, với chiến lược “vượt trên ngăn chặn”, chúng đánh thẳng vào trung tâm các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ngay tại chỗ. Hiện nay mục tiêu chống phá của chủ nghĩa đế quốc đối với chủ nghĩa xã hội cũng thay đổi. Mục tiêu của chúng trước đây chỉ là từng bước ngăn chặn ảnh hưởng và làm suy yếu chủ nghĩa xã hội, ngày nay là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho những nước này, “hòa nhập vào đại gia đình của thế giới tự do”, “vào trật tự thế giới đang tồn tại hiện nay”…

JPEG - 13.3 kb

Những nhận định của Nguyễn Quang Phòng về biến cố Đông Âu không khác gì quan điểm của Đào Duy Tùng, lúc đó đang là Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị phụ trách về lý luận, cho là do các thế lực đế quốc từ bên ngoài tác động vào, chứ không phải do khát vọng tự do dân chủ của người dân vùng lên đấu tranh. Họ hoàn toàn loại bỏ những nỗ lực tranh đấu đòi dân quyền và dân sinh của công nhân, trí thức và của cả những người đảng viên muốn cải cách tại các nước Đông Âu cũ. Tài liệu còn hăm dọa trong nội bộ đảng rằng: “bọn đế quốc và các thế lực phản động đặt lên hàng đầu việc phá hoại tư tưởng. Rút kinh nghiệm thành công từ sự phá hoại về tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, chúng hy vọng có thể làm tan rã xã hội ta (Việt Nam) một cách dễ dàng hơn cũng bằng những âm mưu và thủ đoạn phá hoại về tư tưởng… Mục tiêu là làm cho một số người hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước, làm nảy sinh những khuynh hướng chính trị, tư tưởng sai lầm”.

Đặc biệt, trong công tác chính trị, đảng chủ trương giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng đảng hiểu rõ vị trí và tầm quan trọng của công tác đấu tranh tư tưởng, đó là không chấp nhận đa nguyên, đa đảng và phải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ đường lối, quan điểm của đảng. Ngoài ra, công tác tư tưởng còn đặt trọng tâm vào việc “quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách đổi mới của đảng và nhà nước, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của đảng, khắc phục được tư tưởng bi quan dao động và những hiện tượng sai trái khác như phủ nhận thành quả cách mạng, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng, chủ trương đa nguyên chính trị, đa đảng… Trong khi đó, Bộ chính trị đã tăng cường kiểm soát báo chí, xuất bản, sinh hoạt tư tưởng nhất là của giới trí thức và văn nghệ sĩ. Những ý kiến khác với Nghị quyết 7, 8 nói trên đều bị cấm đoán. Bộ chính trị còn ra lệnh giải tán hai đảng Dân Chủ và Xã Hội được thành lập theo nhu cầu “lịch sử” trước đây và đình chỉ vĩnh viễn hai tờ báo Tổ Quốc và Độc Lập của hai đảng này.

Đảng Cộng Sản Mò Mẫm Tìm Hướng Đi Mới Trong Sự Phân Liệt Nội Bộ

JPEG - 16.2 kb

Trong lúc tiến hành việc “giải độc” cán bộ, đảng viên các cấp về những diễn biến xảy ra ở Đông Âu, ngay từ giữa năm 1989, Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu mò mẫm tìm một hướng đi mới, qua việc soạn thảo bản Cương lĩnh mới mà họ gọi là “Cương Lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ”, trước sự sụp đổ hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu. Theo Đào Duy Tùng thì bản dự thảo này đã thảo luận và viết đi viết lại đến 15 lần, đến tháng 8-1990, Bộ chính trị mới đem ra thảo luận rộng rãi trong Hội nghị lần thứ 9 của ban chấp hành Trung ương đảng. Tại hội nghị này, Trung ương đã quyết định phổ biến lấy ý kiến trong quần chúng, đảng viên, trước khi công bố chính thức vào đại hội đảng lần thứ 7 vào năm 1991. Nội dung của bản dự thảo Cương lĩnh không có gì mới, vẫn là những từ ngữ dao to búa lớn, tiếp tục dựa vào những nguyên tắc kinh điển lỗi thời của thời kỳ “ai thắng ai” để tiếp tục cố thủ trong lô cốt Mác – Lê. Bản Cương lĩnh này có 6 chương:

Chương I đề cập về “thắng lợi vĩ đại và những bài học của cách mạng Việt Nam”, kể về công lao giải phóng đất nước của đảng và khoe khoang sự thành công vì nhờ biết kết hợp năm bài học lớn: 1/giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; 2/coi sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân; 3/biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; 4/phải giữ gìn đoàn kết thống nhất của đảng như con ngươi của mắt mình; 5/coi sự lãnh đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc cách mạng.

Chương II đề cập về “quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, để khẳng định quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, dù chủ nghĩa này đang gặp khó khăn. Dự thảo Cuơng lĩnh cho rằng bức tranh toàn cầu của thời đại ngày nay tuy có phức tạp và đầy mâu thuẫn nhưng nội dung cơ bản của thời đại này vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Vì thế để kiên định với quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, dự thảo Cương lĩnh đã vạch ra năm nguyên tắc: a/lấy liên minh công nhân – nông dân – trí thức làm nền tảng để xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa (trước đây chỉ có 2 giai cấp là công nhân và nông dân mà thôi); b/tiến hành công nghiệp hoá; c/đa dạng hoá về hình thức sở hữu, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhưng lấy quốc doanh và tập thể làm nền tảng; d/bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh thành một tư tưởng chỉ đạo ngang hàng với Mác – Lênin; e/tiếp tục giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc để tập hợp các lực lượng đứng sau lưng đảng; e/xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa là nhu cầu thiết yếu hiện nay.

Chương III đề cập về “Phát triển kinh tế xã hội”, với chủ trương xóa bao cấp và kế hoạch hóa để theo đuổi việc áp dụng nền kinh tế hàng hóa theo khuynh hướng thị trường; đồng thời tiến hành một số đổi mới về văn hoá, xã hội, giáo dục, nghệ thuật để đáp ứng cho nhu cầu mở ra của xã hội.

Chương IV đề cập về “quốc phòng, an ninh và chính sách đối ngoại”, với chiều hướng mở rộng ngoại giao toàn phương vị nhằm giải tỏa tình trạng bị phong tỏa kinh tế và cô lập ngoại giao do sự chiếm đóng Kampuchia trước đây; nhưng vẫn còn xác định là sẽ phấn đấu không mệt mỏi nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đảng trước sau như một tiếp tục ủng hộ các cuộc đấu tranh giai cấp và chống lại các thế lực phản động, với lý luận cổ điển là “ai thắng ai”.

Chương V đề cập “hệ thống chính trị” với nhu cầu hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đó đảng sẽ không nhúng tay vào điều hành sắp xếp các bộ phận mà chỉ lãnh đạo qua cương lĩnh, đường lối và những chủ trương chiến lược.

JPEG - 14.3 kb

Bản dự thảo Cương lĩnh được viết ra trước khi có những biến chuyển sâu sắc lên tình hình Liên Xô (Liên bang Xô Viết sụp đổ vào tháng 12-1991) nên nội dung tuy có nhẹ nhàng so với các văn kiện trước đó, nhưng vẫn đặt nặng tin tưởng tuyệt đối vào sự tồn tại của Liên Xô để lãnh đạo khối Cộng sản quốc tế. Vì thế mà nương theo việc tổ chức các cuộc “học tập” về dự thảo Cưong lĩnh, đảng Cộng sản Việt Nam đã huy động toàn bộ lực lượng báo chí, truyền thông và những cơ quan phụ trách công tác lý luận của đảng, mở hàng loạt chiến dịch tấn công vào các chủ trương đa nguyên, tiếp tục cổ võ xã hội chủ nghĩa là một giải pháp duy nhất để phát triển Việt Nam. Cuộc lấy ý kiến này đã tạo ra sự tranh luận gay gắt giữa một số trí thức xã hội chủ nghĩa với các cán bộ phụ trách công tác tư tưởng ở trong đảng. Cuối cùng thì bản Cương Lĩnh đã được thông qua trong đại hội đảng kỳ VII vào tháng 6-1991. Tuy nhiên, vì nội dung của bản Cương Lĩnh mới không đủ thuyết phục trong nội bộ nên đảng Cộng sản Việt Nam đã phải bày vẽ ra hai điều mới vào lúc đó.

Một, đưa tư tưởng Hồ Chí Minh lên ngang tầm với chủ nghĩa Mác Lê để hy vọng làm chất keo gắn bó cán bộ đảng viên trong sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản. Họ đã gượng ép đề cao tư tưởng “bác Hồ” qua các tài liệu, sách vở ký tên Hồ Chí Minh mà nội dung chỉ toàn là sự kính cẩn nhắc lại giáo điều Mác, Lênin, Mao, và biểu hiện ra bằng sự máy móc rập khuôn theo những mô thức Liên Xô, Trung Quốc đã được chứng minh là hoàn toàn sai trật. Do đó, phần to lớn của cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh này hiện nay không được nhắc đến nữa, trừ một khẳng định là Hồ Chí Minh đã chọn theo con đường xã hội chủ nghĩa. Phần còn lại được lãnh đạo Việt cộng tô vẽ và gán những “thánh ngôn” cho Hồ Chí Minh chỉ toàn là những câu cóp nhặt từ sách Tống Nho, kiểu “cần kiệm liêm chính”, hay “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” và những khẩu hiệu trống rỗng như “độc lập, tự do, hạnh phúc”…

Hai, đưa ra chính sách dân chủ hóa từ trong đảng và kéo thêm giới trí thức vào trong thành phần chủ lực đảng, trở thành liên minh công – nông – trí thức, nhằm đối phó với thực tế bất lực và thiếu khả năng của lãnh đạo đảng. Dân chủ hóa từ trong đảng là cho phép những phê bình chỉ trích hay góp ý trong một đám quần chúng giới hạn mà lãnh đạo đảng có thể kiểm soát và tin cậy được. Mục tiêu là để vừa chứng minh rằng lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng lắng nghe, khuyến khích đảng viên đóng góp ý kiến xây dựng đảng, vừa để giải quyết tình trạng nhũng lạm quá mức của cán bộ đảng viên, gây tai hại cho đảng.

JPEG - 12.1 kb

Ngoài hai điều thêm nói trên, kể từ năm 1991, đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chủ trương dứt khoát xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Mặc dù phải chính thức nói ra việc áp dụng cơ chế thị trường, Hà Nội vẫn quanh co gắn thêm nhóm từ “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để che dấu sự lấn cấn về lý luận. Ngoài ra, trên phương diện chính trị, đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương xây dựng “nhà nước pháp quyền”, “xây dựng pháp luật” và đổi mới hệ thống chính trị, cụ thể là tu sửa hiến pháp năm 1980 để tạo bộ mặt bớt chuyên chính vô sản. Tuy nhiên, dù cực đoan đến mấy, Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam đều thấy rõ là chủ nghĩa cộng sản đã mất giá trị kinh điển lý thuyết để dựa vào như trước. Hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn gãy đổ. Hai đặc điểm then chốt là chuyên chính vô sản và kinh tế tập trung hoàn toàn mất tính cách khả thi. Và quan trọng hơn, lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhận ra rằng họ không còn điều kiện quay ngược trở lại để áp đặt chúng vào khung cảnh chính trị Việt Nam nữa. Ngoài ra, đảng Cộng sản Việt Nam đã sửa đổi nhóm từ công cuộc đổi mới đang trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa thành ra là: tiến hành đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự tuột dốc về mặt tư tưởng, nhưng Bộ chính trị vẫn cố níu giữ chủ nghĩa Mác – Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, với hy vọng làm chất keo tạm gắn nội bộ và để biện minh cho việc đảng tiếp tục nắm quyền.

JPEG - 5.6 kb

Nỗ lực của họ là tìm mọi từ ngữ, kể cả ngụy tạo nhằm nối kết được sự liên hệ giữa chủ thuyết Mác- Lê với cơ chế thị trường, để chứng minh rằng mô hình “cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là khả thi. Để thực hiện nỗ lực này, Đỗ Mười đã đại diện Bộ Chính Trị cho phổ biến một Nghị quyết mang tên: về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, vào ngày 28-3-1992, đề ra nhiệm vụ: Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết có lý luận những kinh nghiệm cơ bản trong cuộc đổi mới nhằm phục vụ việc chuẩn bị cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ và cho Đại hội đảng kỳ VIII. Việc tổng kết này là nhiệm vụ trung tâm của công tác lý luận mấy năm trước mắt nhằm làm sáng tỏ hơn nữa căn cứ khoa học và thực tiễn của việc xây dựng mô hình về còn đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Đối với lãnh đạo Hà Nội, lý luận là một công tác cực kỳ quan trọng, bởi phối hợp được với công tác tổ chức hàng ngũ đảng viên mới yên ắng, và đảng mới có hy vọng tồn tại. “Tổng kết thực tiễn” trở thành nhiệm vụ trung tâm của công tác lý luận vì nhằm đối phó ba vấn đề: 1/Sự hụt hẫng hoàn toàn về tư tưởng và viện trợ, khi đảng vẫn quan niệm dựa vào Liên Xô như là cây cột chống trời xưa nay. 2/Ngày nay, quốc tế cộng sản đã chết mà không chịu giẫy trước, chỉ còn lại trên thế giới 4 nước không thể dựa lưng nhau, trong lúc Mỹ trở thành độc tôn của thế giới đa cực về kinh tế, nhưng đơn cực về chính trị. 3/ Các bức màn sắt màn tre đều đua nhau sập trước kỹ thuật truyền thông hiện đại. Dữ kiện về các biến động thế giới chỉ vài tiếng đồng hồ là tới Việt Nam. Riêng các dữ kiện trong nước, kể cả trong Trung ương đảng, cũng không còn bưng bít nổi như trước.

Chính vì vậy mà “tổng kết thực tiễn” lại phải xào nấu ra một món hổ lốn không thực tiễn khác. Đó là “định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”. Gia vị của nó là tư tưởng Hồ Chí Minh, màu sắc dân tộc, kinh tế mở do nhà nước điều tiết vĩ mô, dân chủ tập trung, đảng lãnh đạo. Rốt cuộc là Bộ chính trị đã không tìm ra một hệ thống lý luận nào khả dĩ có thể cho toàn đảng thấy rõ sự thành công của hướng đi mới. Họ đã kết luận nửa vời rằng: Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường không để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng, mà phải lãnh đạo, hướng dẫn điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, vì một xã hội công bằng và văn minh”. Hậu quả của việc chọn lựa hướng đi nửa vời nói trên, đã dẫn đến sự bất đồng ý kiến về mức độ và phương thức đổi mới chính trị, tạo ra sự phân hóa trầm trọng trong Bộ chính trị, chủ yếu không ở lý luận vốn chưa định hình như trên đã đề cập, mà là do thực tế điều hành, gắn liền với quyền và lợi của các phe nhóm.

Nếu ngày trước đã từng có thời tranh nhau “chuyên chính vô sản”, các Ủy viên Bộ Chính Trị đã cố vượt qua đối thủ bằng cách chứng tỏ mình là người “mác-xít” nhất, cống hiến cho đảng nhiều nhất, và đã cùng nhau đưa cả nước phá sản, thì trong cuộc đua “kinh tế thị trường”, các Ủy viên Bộ chính trị, lại phải cật lực chứng tỏ rằng chỉ có mình và phe mình mới là kẻ “nắm bắt xu thế thời đại” vững vàng nhất, “biết rõ luật chơi văn minh” sâu sát nhất, cũng gọi là cống hiến nhiều nhất vào việc bảo vệ cho đảng còn chỗ đứng, và đã đưa cả nước đến sát thềm xâm thực của tài phiệt ngoại quốc.

JPEG - 13.1 kb

Trong thực tế, vấn đề trên không dễ dàng thực hiện, không chỉ vì “công lao quá khứ” mà chính là vì “quyền lợi hiện tại và tương lai” của từng cá nhân trong giới lãnh đạo đảng. Sự chòng chéo của các mối quyền lợi cá nhân này hiện vẫn chi phối vận mệnh đất nước. Ngay cả mức độ khác nhau của nỗ lực cống hiến cho việc bảo vệ chỗ đứng của đảng cũng không thể phân biệt một cách giản dị. Bởi ngày nay, “giữ đảng” chỉ là lý luận mặt nổi cho các toan tính “giữ quyền” của lãnh đạo ở mặt chìm. Cụ thể ra, thuần chính trị mà nói, cách ứng xử chung là bám đảng chứ không giữ đảng. Còn xu thế chung lại thuộc về kinh tế, là giữ của (để thành tư sản đỏ) chứ không phải giữ đảng (để thành vô sản đỏ).. Sự mò mẫm tìm hướng đi mới của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam sau khi Liên Xô tan rã, đã tạo ra tình trạng lập ê kíp riêng phát triển mạnh mẽ, gây ra những mâu thuẫn gay gắt trong đảng, với nhiều phe nhóm xuất hiện. Vào lúc đó, có hai phe kình chống nhau một cách gay gắt và còn tiếp tục kéo dài cho đến hôm nay gồm: Phe Đỗ Mười, Lê Đức Anh (thân Trung Quốc và có quan điểm giáo điều); Phe Võ Văn Kiệt (thân Tây phương và có quan điểm đẩy mạnh theo xu hướng thị trường).


Những Lên Tiếng Phản Kháng Của Giới Trí Thức Xã Hội Chủ Nghĩa

Thành phần văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam đã có những đối kháng với đảng Cộng sản Việt Nam từ thập niên 40 của thế kỷ 20 kéo dài liên tục cho đến ngày nay, qua nhiều thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến khi có biến cố Đông Âu xảy ra, đã có hai cuộc đối kháng của giới văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu dưới chế độ Cộng sản là vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956-1958) và vụ Chống đảng xét lại (1963-1967).

Từ giữa thập niên 50, khi đảng Cộng sản thiết lập chế độ cộng sản và tiến hành chính sách cải tạo ruộng đất sắt máu ở miền Bắc, giới văn nghệ sĩ, trí thức miền Bắc tập họp quanh các tạp chí Giai Phẩm, Nhân Văn và Đất Mới, như Hoàng Cầm, Phùng Quán, Lê Đạt, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Trần Dần… đã viết những bài vạch trần các sai lầm của cải cách ruộng đất, tranh luận về dân chủ, đòi tự do sáng tác và nhất là tấn công tham nhũng, đả kích sự quan liêu, sự xơ cứng chủ nghĩa giáo điều. Phong trào chống đối này đã phát triển nhanh chóng tạo một ảnh hưởng to lớn trên cả giới văn nghệ sĩ, trí thức và gián tiếp đặt lại vấn đề lãnh đạo của đảng trong sinh hoạt văn hoá – văn nghệ. Đầu năm 1958, đảng Cộng sản Việt Nam mở chiến dịch phản công lại bằng những thủ đoạn vu khống, trù dập và huy động cả một phong trào quần chúng mít tinh, biểu tình, học tập… để áp đảo nhóm Nhân Văn Giai Phẩm với kết quả 304 người bị đi “học tập cải tạo” và hàng ngàn người khác can tội liên lụy, phải sống một cuộc đời đen tối suốt hàng chục năm sau đó. Nhưng dù bị chế độ trù dập và khống chế, đa số những văn nghệ sĩ, trí thức liên hệ trong vụ án này đều rất khí khái, cương quyết không chịu khuất phục trước bạo quyền cho đến cuối đời.

JPEG - 6.7 kb

Giữa thập niên 60, Nikita Khrutchev lên làm Tổng bí thư, công khai hạ bệ Stalin trong đại hội kỳ thứ 20 của đảng Cộng sản Liên Xô đã làm chấn động đến tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa và thu hút sự đồng tình của giới đảng viên, trí thức. Tuy nhiên, việc làm của Khrutchev đã bị Mao Trạch Đông lên tiếng công kích cho là theo chủ nghĩa xét lại nguy hiểm. Lúc đó, đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ tuy ngoài mặt thân thiện với Liên Xô, nhưng bên trong ngầm đi theo đường lối của Bắc Kinh, chống lại chủ trương xét lại của Khrutchev. Lê Duẩn cho rút toàn bộ du học sinh từ Liên Xô về nước và tiến hành việc theo dõi, truy bức để loại trừ những thành phần thân Liên Xô trong nội bộ. Chính vì thế mà từ đầu năm 1964, một số cán bộ cao cấp trong đảng, chính quyền và quân đội cũng như nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh ở Liên Xô phải bỏ nhà, bỏ nước, xin tỵ nạn chính trị như các ông Nguyễn Minh Cần, Đại tá Lê Vinh Quốc….

JPEG - 28 kb

Tháng 7-1967, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã bắt đầu đợt bắt bớ quy mô gồm ông Hoàng Minh Chính, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, ông Trần Minh Việt. Đến tháng 10, tới lượt ông Vũ Đình Huỳnh, ông Nguyễn Kiến Giang và nhiều người khác bị bắt. Đến tháng 12 thì nhà văn Vũ Thư Hiên bị đón đường chận bắt và đưa ngay vào Hỏa Lò. Một vài ủy viên trung ương đảng tuy không bị bắt nhưng bị giam lỏng tại nhà như các ông Bùi Công Trình, ông Lê Liêm. Những người này bị gán ghép đủ thứ tội nào là “phản động, chống chế độ, phản cách mạng, chống đảng, tay sai nước ngoài” nhưng lại không hề được đưa ra xét xử mà bị giam giữ hàng chục năm. Cho đến nay, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn làm ngơ đối với vụ án này dù đã có rất đông những cán bộ lão thành, những trí thức xã hội chủ nghĩa lên tiếng đòi phải bạch hoá trước công luận.

Tuy nhiên, cho đến khi đảng bắt đầu đưa ra chính sách kiểm thảo, phê bình tự phê sau biến cố Đông Âu từ tháng 3-1990, và kêu gọi cán bộ đảng viên góp ý về hai văn kiện “Cương Lĩnh Chính Trị Mới”“Chiến Lược Kinh Tế – Xã Hội Năm 2000” để chuẩn bị đại hội đảng kỳ VI thì hàng loạt những kiến nghị, phát biểu của nhiều đảng viên lão thành và giới trí thức được phổ biến dưới nhiều hình thức, bắt đầu đặt thẳng vào vấn đề cốt lõi nhất, đó là bãi bỏ vai trò lãnh đạo độc tôn của đảng, công nhận đa nguyên đa đảng. Sau đây là những ghi nhận các phát biểu ghi lại theo thứ tự thời gian.

JPEG - 3.6 kb

Đầu tiên là ông Lê Hồng Hà, một cán bộ lão thành đã công kích về sự nhận thức hời hợt của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam về các nhu cầu cải tổ ở Việt Nam, dựa trên những góp ý của “cố vấn” Liên Xô đối với bản dự thảo Cương Lĩnh của Hà Nội vào tháng 9-1989. Ông Lê Hồng Hà đã tiết lộ một số điều mà cố vấn Liên Xô nói với lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Lê Hồng Hà nói rằng: “Về cơ bản, Liên Xô đã bác bỏ nhiều luận cứ của đảng Cộng sản Việt Nam. Chẳng hạn đảng nhấn mạnh khẩu hiệu đấu tranh “ai thắng ai”, Liên Xô nói rõ đây là khẩu hiệu của thời Stalin và khuyên ta nên dùng ý niệm “mềm dẻo hơn, phù hợp hơn”, “tránh cường điệu những mâu thuẫn” để có thể ” vận động thật đông đảo lực lượng nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Đối với đường lối cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “từng bước cải tiến đời sống nhân dân, nhanh chóng đưa nền sản xuất tự nhiên, nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa” thì Liên Xô đề nghị đảo ngược, đó là “nhanh chóng cải thiện đời sống của nhân dân, đồng thời từng bước tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Đề nghị của Liên Xô rất thực tế vì nhân dân ta, trong một thời gian dài, đời sống vật chất rất thấp, cần được cấp bách cải thiện thế mà lãnh đạo không thấy cần nhanh chóng cải thiện . Mặt khác với một nền sản xuất “buôn thúng bán mẹt” thì làm sao và lấy gì để tiến nhanh lên nền đại công nghiệp. Qua đó, ta thấy rõ hơn sự cũ kỹ, sự chủ quan và ấu trĩ trong lý luận của nhiều vị có vai vế trong đảng Cộng sản Việt Nam”.

Đề cập về viễn cảnh tình hình đất nước hiện nay, ông Lê Hồng Hà viết rằng: “Nhiều nước Đông Âu đang lao vào cơn lốc, độc lập với ý muốn của các đảng Cộng sản ở nưóc lớn. Liên Xô đang có những cố gắng cải tổ, xuất phát từ bên trên. Trung Quốc đang đi theo con đường thực dụng và đầy lúng túng. Một số khác tỏ ra cứng rắn hơn. Trước mắt, cơn giông tố còn đang xảy ra, chưa ai biết đến sẽ dẫn đến chỗ nào. Cuộc cải tổ nào thành công, nơi nào đổ vỡ, thất bại. Dù sao, xu thế chung của các nước là mở rộng dân chủ, mở cửa đối với thế giới, tôn trọng những quyền cơ bản của con người, đẩy mạnh phát triển và hợp tác kinh tế. Tình hình kinh tế và xã hội Việt Nam có lẽ trầm trọng hơn nhiều nước Đông Âu, đáng lẽ cơn lốc cũng đã xảy ra. Tuy nhiên do những yếu tố nội tại, cơn lốc chưa đến. Việt Nam không có truyền thống dân chủ, lại thiếu truyền thống quật cường nội bộ. Hoàn cảnh chưa thuận tiện để làm xuất hiện những nhà tư tưởng có tầm cỡ và, hoặc để, dấy lên phong trào quần chúng mạnh mẽ. Chính vì lẽ đó, cuộc thoát xác của Việt Nam, thường chỉ bắt đầu từ bên trên lãnh đạo. Nhưng nếu lãnh đạo không đủ nhạy bén để ứng xử, không dám tách quyền lực và quyền lợi của mình, thì xã hội phải chịu quy luật cơ bản của nó. Người xưa từng nói: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Sử sách cũng còn đầy những tấm gương như thế…

JPEG - 3.7 kb

Nhà văn Dương Thu Hương, từ một người được đào tạo để viết những truyện theo “đơn đặt hàng” của chế độ, đã chuyển sang viết bằng tấm lòng chân thật và cảm thông trước những nỗi thống khổ của người dân và bằng sự phẫn uất của một con người có lý tưởng nhưng đã bị lôi kéo vào những chiêu bài tuyên truyền của đảng Cộng sản. Năm 1986, với chuyện dài “Bên Kia Bờ Ảo Vọng” bà Dương Thu Hương đã nói lên tính “đạo đức giả” của cấp lãnh đạo Hà Nội và đến năm 1988, bà cho ra đời tiếp chuyện “Những Thiên Đường Mù”, đánh thẳng vào nền tảng của chủ nghĩa cộng sản qua những biến cố xảy ra trên đất nước, khởi đi từ thảm kịch cải cách ruộng đất. Hai tác phẩm này cũng như những bài phát biểu của bà sau này đã tạo sự ý trong dư luận và gây khó chịu cho đảng Cộng sản rất nhiều. Trong bài viết lấy tên “tờ trình với chi bộ đảng, xưởng phim truyện” ký ngày 30-5-1990, bà Dương Thu Huơng đã nêu lên một số vấn đề với lãnh đạo đảng, qua chi bộ Xưởng phim truyện I mà bà đang sinh hoạt:

1/Trong bài trả lời phỏng vấn ngày 1-3-90, tôi cho rằng du nhập chủ nghĩa Mác vào Việt Nam (như hiện thục đã thấy) là một điều xa xỉ. Dân tộc Việt Nam thoát thai từ một xứ thuộc địa chỉ bao gồm nhiều tầng lớp nô lệ cấp độ khác nhau. Trong xã hội thuộc địa, điều kiện kinh tế và chính trị không cho phép hình thành các tập đoàn giai cấp theo nguyên nghĩa. Áp dụng nguyên lý đấu tranh giai cấp vào một cộng đồng như thế chỉ đem lại cảnh nồi da xáo thịt, tiêu hủy những trữ năng tinh thần to lớn trong truyền thống (như tinh thần đoàn kết, nền luân lý cổ truyền, thuần phong mỹ tục, các kênh liên kết tinh thần của cộng đồng…) và tiêu hủy những tiềm năng phát triển kinh tế (cải cách ruộng đất đã tiêu diệt lớp trung nông, những người sản xuất chính ở nông thôn; các cuôc cải tạo tư bản tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam năm 1977 đã làm tàn lụi kinh doanh và kỹ nghệ gia, nền tảng của sự phát triển công nghiệp và kinh tế đô thị).

2/Trong bài phỏng vấn ngày 12-5-1989 và bài trả lời cán bộ Ban tổ chức trung ương ngày 1-3-90, tôi bác bỏ nguyên tắc chuyên chính vô sản và tập trung dân chủ vì trong cơ cấu xã hội chủ nghĩa (sở hữu toàn dân) chỉ có thể xảy ra một trong hai khả năng: a/tất cả mọi người đều là vô sản; b/hoặc tất cả mọi người đều không là vô sản. Theo khả năng a), vì không ai có quyền sở hữu tư liệu sản xuất (hầm mỏ, nhà máy, ruộng đồng). Theo khả năng b), vì coi tài sản không có tư liệu sản xuất mà còn bao gồm tài sản nghĩa thông thường (tiền, nhà cửa, áo quần, tiện nghi…). Lẽ thứ hai, khái niệm giai cấp kể từ ngày Mác viết Tuyên ngôn đến nay đã thay đổi ghê gớm không thể tưởng tuợng nổi: cách đây một thế kỷ, công nhân Anh cả ngày làm việc ít hơn 18 giờ (theo tạo chí Tuần Lễ số 40 năm 1989, trang 2) và hiện nay, một tuần lễ là 44 giờ ở Liên Xô, thuộc loại nhiều giờ nhất thế giới (Theo tạp chí Tuần lễ số 40 năm 1989, trang 7). Với hoàn cảnh xã hội đã thay đổi như thế, còn áp dụng máy móc những nguyên lý, những quan niệm cách đây trên 100 năm tất dẫn đến những hậu quả âm tính.

3/Ngày 8-4-1990, trong khi nói chuyện tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi có nói tới lý tưởng: chủ nghĩa Cộng sản hấp dẫn nhân loại vì nó hừa hẹn một thế giới công bằng. Cách mạng lôi cuốn được hàng triệu người vượt qua đói khổ, chết chóc mà đi tới chiến thắng cũng vì nó nhân danh lẽ công bằng, nó mong ước xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do bác ái. Cho nên, một câu trong bài Quốc tế ca (không hiểu do người dịch hay từ nguyên tác): “Đấu tranh này là trận cuối cùng, bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình…” đã mang tính chất phản bác lại mục tiêu cao quý của cách mạng, cướp chính quyền để dành “bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình” thì giai cấp ấy sẽ tạo nên một sự bất công mới, tàn khốc hơn. Bất công mới sẽ kéo theo nó hận thù và sẽ có lại một cuộc cách mạng khác xảy ra để tước đoạt lại cái quyền đã bị tước đoạt. Và cái vòng lẩn quẩn ấy mãi mãi giam hãm nhân loại trong cảnh máu chảy đầu rơi.

4/Bài nói chuyện ngày 8-4 của tôi phủ định quá khứ hay không? Có lợi dụng dân chủ công khai gây ra sự nghi ngờ của quần chúng đối với sự lãnh đạo đảng hay không?… Tôi nghĩ, chỉ kẻ điên mới giơ tay che mặt trời và la lên rằng trời tối quá. Cũng chỉ kẻ điên mới cầm con đom đóm giữ đêm mà kêu to lên rằng trời sáng rõ rồi. Sự thật là sức mạnh tối cao. Sự thật là người tuyên án đầu tiên là kẻ phán quyết cuối cùng trong lịch sử. Ý chí của một đảng, một hệ thống, một lãnh tụ quốc gia còn bị các quy luật khách quan của đời sống bẻ gãy huống hồ ý kiến chủ quan của một cá nhân nhỏ bé, không quyền lực như bản thân tôi… Thử nhìn lại xem, chúng ta không thể không nghi ngờ thiện chí của các nhà sáng tạo hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn là họ mơ ước xây dựng nên một hệ thống xã hội tuyệt hảo: Dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản – Hệ thống xã hội tiêu biểu cho triết học duy vật – Ưu việt về quyền con người – Ưu việt cho các giá trị tinh thần và đạo đức – Tiêu biểu tính tập thể – Ưu việt về tính sáng tạo của trí thức – Và cốt lõi nhất là ưu việt về năng suất lao động. Nhưng, hiện thực đã phơi bày rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa vướng nhiều nhất về dân chủ – Vi phạm nhân quyền – Làm thui chột sức sáng tạo của trí thức – Đạo đức sa sút – Mắc tội sùng bái cá nhân, duy tâm, duy ý chí – Và điều cốt yếu là năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thua kém một cách rõ rệt không thể biện minh.

Đoạn cuối của bài “tường trình” nói trên, bà Dương Thu Hương đã nói về mình như sau: “Chính vì tin tưởng vào nghị quyết VI (nghị quyết đổi mới năm 1986), tin tưởng vào chủ trương tự hoàn thiện mình của đảng nên tôi mới thẳng thắn công khai phát biểu tư tưởng của mình. Kết cục là ngày hôm nay buộc tôi phải nhận thấy mình đã phạm cái tội lớn nhất mà những người lương thiện thường hay mắc : Đó là tội nhẹ dạ và cả tin”. Từ quan điểm này, bà Dương Thu Hương sau đó đã bị công an theo dõi và trù dập như một người chống đảng.

Cùng thời gian này, ông Nguyễn Kiến Giang đã phổ biến một bài viết “Bàn về sự lãnh đạo của đảng” đăng trên tờ Khoa Học và Tổ Quốc số phát hành vào tháng 4-1990. Ông Nguyễn Kiến Giang đã viết: “từ khi đảng nắm được chính quyền một cách toàn vẹn, lúc đầu ở miền Bắc và sau đó ở miền Nam, trên cả nước, thì cách hiểu về độc quyền lãnh đạo đã biến đổi về tính chất của nó. Từ chỗ là một sự lựa chọn lịch sử khách quan, sự độc quyền lãnh đạo của đảng dần dần được hiểu và được thực hiện thành sự thống trị tuyệt đối của đảng trong mọi lãnh vực đời sống xã hội, thậm chí có khi cả đời sống cá nhân, thành “đảng trị” (partocracy). Đảng biến thành “đảng nhà nước”, thành một thứ “siêu Nhà nước”, có toàn quyền quyết định tất cả, từ những chủ trương lớn, đến những biện pháp thực hiện nhỏ và mọi người dân chỉ còn được phép nghĩ theo, nói theo và làm theo những quyết định của đảng, có khi chỉ là của một cấp lãnh đạo thậm chí cá nhân lãnh đạo nào đó… Sự thống trị tuyệt đối của đảng thể hiện ở chỗ nào?

Trước hết ở những đặc quyền và ở những độc chiếm của đảng và các đảng viên. Tất cả các cơ quan dân cử, các cơ quan lãnh đạo quản lý xã hội đều được cấu thành từ đảng viên (tất cả hoặc hết). Phải là đảng viên thì mới có thể giữ những chức vụ lãnh đạo và quản lý từ trên xuống dưới. Do đó, muốn hưởng những đặc quyền vật chất (lương bổng, gạo, phương tiện sinh hoạt) phải là đảng viên…. Nhưng còn một thứ đặc quyền khác còn nguy hiểm hơn nhiều: đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý. Có thể tính tác hại của đặc quyền vật chất thành những số tiền của mất đi, nhưng không thể nào tính được tác hại của đặc quyền tinh thần, của độc quyền chân lý bằng những thước đo sờ thấy. Mà tác hại của thứ đặc quyền này đối với xã hội thật ghê gớm. Một chủ trương phiêu lưu về đối nội đối ngoại có thể bắt cả xã hội trả giá nặng nề, làm chậm sự phát triển xã hội hàng thập kỷ. Một chủ trương sai, một quan điểm sai dẫn đến chỗ đánh thẳng vào di sản tốt đẹp của quá khứ, làm cho đời sống hiện tại xuống thấp và phá hoại cả niềm tin con người vào tương lai, nhiều thế hệ liền phải gánh chịu hậu quả không dễ gì xoá bỏ được.

Từ những phân tích nói trên, ông Nguyễn Kiến Giang cho rằng sự lãnh đạo của đảng chỉ được thừa nhận một cách tự nguyện và đầy đủ khi đảng thật sự là lãnh đạo trí tuệ (tập hợp được trí tuệ của toàn xã hội), là lãnh tụ chính trị (đưa ra được những chủ trương chính trị đúng đắn) và là lãnh tụ đạo đức (nêu gương đời sống lành mạnh) của xã hội. Từ đó ông đề nghị đảng Cộng sản cần tiến hành một số biện pháp rốt ráo như:

JPEG - 6.6 kb

1/Xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp quy định về pháp lý vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội, các tổ chức đảng và đảng viên không thể dựa vào ưu thế pháp lý của mình trong lãnh đạo và sự lãnh đạo của đảng chỉ còn dựa vào phương pháp thuyết phục, tất cả các nghị quyết, chỉ thị của đảng không mang tính chất bắt buộc đối với các công dân về mặt pháp lý (trừ những trường hợp đã biến thành luật).

2/ Đảng không độc quyền chiếm các cơ quan dân cử, các cơ quan lãnh đạo và quản lý xã hội, chỉ dành một tỷ lệ không quá 50% thành phần những cơ quan ấy, như vậy sẽ tập hợp được những người ngoài đảng ưu tú vào công việc quản lý đất nước;

3/Ban lãnh đạo các cấp, kể cả trung ương tiến hành đều đặn những cuộc đối thoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau đối với những người tiêu biểu cho các xu hướng khác nhau trong xã hội, cả với những ngưòi có ý kiến trái ngược với ý kiến của đảng, không định kiến, không trù dập;

4/ Tiến hành những cuộc tranh luận công khai trên báo chí về những vấn đề quốc kế dân sinh, không hạn chế tư tưởng tự do, chỉ với điều kiện không được trái với hiến pháp và pháp luật;

5/Cơ quan thuộc bộ máy đảng không được trực tiếp chỉ huy sự điều hành của những cơ quan, những tổ chức không thuộc hệ thống tổ chức của đảng (cụ thể Ban tuyên huấn không trực tiếp chỉ huy báo chí, ban tổ chức không trực tiếp quyết định công việc nhân sự);

6/Cuối cùng, phải giải quyết tất cả những vụ án oan về tư tưởng và chính trị trước đây, sòng phẳng với những sai lầm của mình trong quá khứ, thật sự khôi phục đầy đủ các quyền công dân cho người bị oan ức, thực hiện hòa hợp dân tộc một cách chân thành.

Tháng 5-1990, ông Lữ Phương, nguyên Thứ trưởng thông tin văn hóa của Chính quyền cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã trình bày một số quan điểm trong bài: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam, di sản và đổi mới”, trong đó ông đã nêu lên một số vấn đề như sau: “…Chủ nghĩa xã hội theo như những điều chúng ta hiểu và đã làm, sau một thời gian dài đem ra thực nghiệm trên thế giới, đang rơi vào tình thế khủng hoảng trầm trọng. Dưới ánh sáng của thực tiễn thì rõ rệt là vấn đề cách mạng, vấn đề chiến tranh giải phóng và vấn đề xây dựng một xã hội kinh tế, xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa là hai vấn đề không hoàn toàn giống nhau về bản chất. Học thuyết Mácxít về kinh tế chỉ là sự phê phán của Mác về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, còn về xây dựng cho bản thân nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sau khi đã có được chính quyền, thì lại tỏ ra không hoàn toàn rõ rệt. Đó mới chỉ là những phác thảo mang tính định hướng lô – gích”. Ông Lữ Phương chỉ ra rằng, khi đảng Cộng sản nắm chính quyền, bước sang thời kỳ xây dựng thì đã có những mâu thuẫn cùng cực: “Ngưòi nông dân sau khi đươc chia ruộng đất thì liền bị đưa vào hợp tác, không còn được làm chủ miếng đất của mình; người tư sản dân tộc cũng không còn được làm chủ nhà máy để thực hiện câu “lợi nhà ích nưóc” – tất cả đều phải là hợp tác và quốc doanh. Quyền tự do đi lại, tự do mua bán đã biến thành chế độ hộ khẩu, chế độ tem phiếu: buôn bán tự do thì bị liệt vào “con phe” còn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chi thì bị quy định một cách ngặt nghèo bởi lề luật của cái gọi là “đấu tranh tư tưởng”: ai muốn tự do ngôn luận thì kể chuyện tiếu lâm hiện đại.

Từ đó ông Lữ Phương đề nghị rằng: “Biện chứng của cuộc khủng hoảng trong chủ nghĩa xã hội hiện thực hiện nay là sự phát triển đã đến điểm nút của những biện pháp xây dựng không thích hợp với thực tiễn cuộc sống đã bị chính cuộc sống đứng lên bác bỏ. Vì thế, đổi mới phải đặt ra cũng là để giải quyết mâu thuẫn căn bản đó, nghĩa là tìm kiếm một mô hình mới về chủ nghĩa xã hội chứ không là chấp vá lại một mô hình cũ…. Việc từ bỏ tất cả những thiên kiến, những giáo điều, những lề lối suy tưởng hoạt động theo thời kỳ chiến tranh và cách mạng, cướp chính quyền cũng phải được duyệt xét một cách can đảm. Không phải chỉ đặt vấn đề làm trong sạch đảng bằng cách “giáo dục” hay “trừng trị” (có người đòi lập pháp trường cát ở sân Tao Đàn) mà chính là một môi trường trong sạch về thực tế và lý luận”. Từ những nhận định này, ông Lữ Phương đã đưa ra một vài tiền đề căn bản đáng chú ý như:

1/Phải từ bỏ những phương pháp cách mạng và bạo lực để phát triển kinh tế và xã hội: phương pháp cải tạo hoà bình mang tính cách mạng đang là khả năng đã xuất hiện trong thời kỳ vượt bậc của khoa học kỹ thuật hiện nay.

2/Phải từ bỏ khái niệm nhà nước giai cấp, vì khái niệm này đã đặt giả định của Mác trong những xã hội tư sản như Mác mô tả là giai cấp vô sản đã trở thành đại đa số dân cư (do sự phá sản của giai cấp tiểu tư sản, quý tộc, tiểu nông và cả tư sản bi cạnh tranh mà trở thành vô sản) và giai cấp tư sản thống trị chỉ còn lại một nhúm đầu xỏ ăn bám thừa thãi.

3/Vấn đề chuyên chính vô sản cũng phải chuyển thành chuyên chính nhân dân thực hiện trong điều kiện hoà bình và thể hiện chuyên chính bằng hiến pháp và luật pháp như các nước hiện đại, dùng sự cưỡng chế của pháp luật để giữ an ninh trật tự, bảo vệ tổ quốc chứ không dùng luật pháp như công cụ của cách mạng như trong thời cách mạng bạo lực.

4/Đảng lãnh đạo bằng thuyết phục, vận động chứ không bằng quyền lực hoặc đảng hoà mình trong xã hội, chứ không đứng ngoài càng không đứng trên xã hội. Đảng phải giao toàn bộ quyền lực cho nhà nước, trở về xã hội công dân, tự đặt mình trong luật pháp, bình đẳng với mọi tổ chức chính trị xã hội khác, từ đó khẳng định lại tài năng và phẩm chất của mình…. Nếu chương trình của đảng hợp lòng dân, thực tế và có hiệu lực để sớm đưa đất nước ra khỏi lạc hậu, nghèo nàn thì đảng sẽ thành đa số để cầm quyền – một cách công khai, pháp định, có thời hạn và được kiểm soát, chứ không phải do vận động ngầm hoặc những cách áp đặt mang tính chất siêu nhà nước hoặc siêu công dân”.


JPEG - 6.2 kb

Tháng 11-1990, trong dịp đến Paris tham dự hội nghị quốc tế, ông Bùi Tín, Phó tổng biên tập Nhật báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản đã gửi một kiến nghị gồm 12 điểm cho đảng Cộng sản Việt Nam qua làn sóng của đài phát thanh BBC tối ngày 27. Vào lúc đó, mặc dù ông Bùi Tín đề cập những sai lầm của chế độ và đề nghị cải sửa; nhưng ông vẫn khẳng định là người trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa và với tư cách một đảng viên. Nhưng sau hơn 12 năm sống lưu vong tại Paris, lập trường và quan điểm hiện nay ông Bùi Tín đã thay đổi và không còn tin vào đảng, vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí ông còn tuyên bố từ bỏ tất cả những huy chương hay những khen thưởng mà ông nhận từ chế độ. Trong kiến nghị 12 điểm đưa ra cách nay 13 năm, ông Bùi Tín đã đề cập đến một vài điểm đáng quan tâm:

1/Tình hình đất nước chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện nghiêm trọng; thời gian gần đây nhiều mặt còn xấu thêm làm cho cuộc sống của nhân dân thêm gay gắt. Do đó, tôi thấy việc thảo luận, hoàn chỉnh hai văn kiện “Cương lĩnh và Chiến lược” nên để thư lại một thời gian; cần tập trung trước hết vào những công việc lớn trước mặt, vài ba năm hoặc năm năm tới – nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng đạt được thế ổn định để bước vào thời kỳ phát triển…

2/Hai nhiệm vụ chiến lược được xác định trước đây là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đến nay, tình hình đã thay đổi, nên xác định một nhiệm vụ chiến lược bao trùm là xây dựng lại và phát triển đất nước về mọi mặt sau chiến tranh.

3/Chúng ta đã phạm những sai lầm: chủ quan, duy ý chí, nôn nóng và vội vã cho nên đã vấp ngã. Muốn đi nhanh, hoá ra đi chậm và lâm vào khủng hoảng. Cần bình tĩnh và tỉnh táo. Cũng như trong đời sống hàng ngày khi đi đường cũng có lúc cần biết lùi lại hoặc đi vòng để tìm con đường hợp lý ngắn nhất đạt đến đích. Biết lùi khi cần để tiến lên là sáng suốt, không có gì phải hổ thẹn. Trên tinh thần đó, lúc này, nên xây dụng chế độ dân chủ thật sự có tính chất nhân dân…. Tên nước cũng nên trở lại là Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tên đảng nên trở lại với tên gọi đảng Lao động Việt Nam…. Không nên đặt mục tiêu quá xa trong khi mục tiêu gần còn cần một thời gian dài mới có thể đạt được.

4/Trong đường lối đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, không liên kết và hợp tác với tất cả các nước; thực hiện đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của một nước thành viên Liên hiệp quốc; chủ trương hoà giải thật sự với những nước trước đây từng có chiến tranh với Việt Nam như Nhật Bản, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc, kiên quyết giở sang trang sử mới trong quan hệ với các nước đó.

Những quan điểm của ông Bùi Tín đã có một số tác dụng nhất định lên hàng ngũ đảng viên cao cấp trong đảng Cộng sản Việt Nam và có người đã phản ứng cho rằng việc làm của ông chẳng khác nào như “trứng chọi đá”. Vì thế sau khi phổ biến kiến nghị 12 điểm, ông Bùi Tín đã viết một bài tham luận khác, bày tỏ một số quan điểm rốt ráo hơn. Lúc đó, ông Bùi Tín đã viết rằng: “Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, trì trệ và đổ vỡ chủ yếu chính là vì đã bỏ qua, phớt lờ, không thực hiện những nội dung thực chất của cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Những quyền tự do dân chủ ở đó trên thực tế đã quá thấp hơn rất nhiều so với các nước tư bản: tự do ngôn luận và tư tưởng; tự do tín ngưỡng; tự do lập hội, lập chính đảng, hội họp, mít tinh, tuần hành, tự do cư trú di chuyển( kể cả ra nước ngoài); tự do bầu cử, tự do xuất bản và báo chí; tự do kinh doanh và cạnh tranh; tự do sáng tạo nghệ thuật và văn hoá… Bỏ lửng nội dung dân chủ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền để gọi là “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” là một việc làm trái quy luật, duy ý chí khổng lồ, thủ tiêu trên thực tế những quyền chính đáng của công dân; từ dưới đất, không chịu qua tầng 2 lại muốn lên ngay tầng 3, có hoạ là mất trí, chính chủ trương trái quy luât, viển vông duy ý chí ấy là lấy trứng chọi với đá. Thái độ chủ quan duy ý chí, áp đặt, phản khoa học như thế mang mầm móng thất bại chủ yếu……”

JPEG - 6.8 kb

Đầu năm 1991, trong lá thư gửi cho Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận tổ quốc đề ngày 6-1-1991, Giáo sư Nguyễn Khắc Viện đã đề nghị đại hội lần thứ VII của đảng Cộng sản tập trung giải quyết hai vấn đề: 1/Cương quyết tuyên bố đảng trả lại mọi quyền hành cho các cơ quan dân cử và nhà nước. Cụ thể hoá là giải thể một loạt bộ phận trực thuộc trung ương cũng như cấp ủy trong các địa phương, trả lại Nhà nước một loạt nhà cửa, chuyển sang khoảng 2/3 cán bộ. 2/Các đồng chí lãnh đạo tối cao các ban trung ương hiện nay tự nguyện rút lui, nhường chỗ cho những người mới. Về tình hình, Giáo sư Nguyễn Khắc Viện còn có ý kiến như: “Kinh tế tư nhân sẽ phát triển, các hãng quốc tế sẽ đầu tư. Đó là xu thế không thể cưỡng, làm cho khoa học kỹ thuật tiên tiến, một số người phát huy khả năng. Để phục vụ cơ cấu kinh tế đó, phải có ba bộ phận a/bộ máy quản lý kinh tế; b/bộ máy nhà nước cai trị; c/bộ máy văn hoá tư tưởng). Đã là kinh tế thị trường, lấy lãi làm gốc thì không nói chuyện nhân nghĩa. Cần phải phát huy quyền tự do dân, công bằng – xã hội, bảo vệ môi trường, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do lập hội để tổ chức cuộc sống ngoài vòng ràng buộc của bộ máy nói trên. Hiện nay, đảng đang đi ngược lại. Thiếu dân chủ trong đảng, trong xã hội đã dẫn đến đẩy những người tâm huyết (như Bùi Tín, Dương Thu Hương và những đồng chí trước đây như Lê Liêm, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang) ra ngoài, biến thành đối lập và làm nản lòng một bộ phận lớn”.

Ngày 22-1-1991, ông Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện triết học Mác Lê, người từng bị Lê Duẩn giam 17 năm tù từ năm 1964 vì bị ghép vào nhóm “chống đảng xét lại”, đã viết một bài góp ý về dự thảo Cương lĩnh với 5 đề nghị rất thẳng thắn đối với đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bài góp ý, ông Hoàng Minh Chính đã bác bỏ dự thảo Cương lĩnh và cho rằng: “nội dung của dự thảo đã đánh giá tình hình thế giới theo mô hình giáo điều tả khuynh từ cách đây 30 – 40 năm, không nêu bật lên được điểm cơ bản nhất và mới mẻ nhất của thời đại mới ngày nay thuộc nửa sau thập kỷ 90. Do đó Cương lĩnh mắc phải mâu thuẫn trong nội dung, rắm rối trong trình bày, lập lại các quan điểm lỗi thời, vừa bi quan, vừa lạc quan vô căn cứ, thiếu nhất quán dẫn tới định hướng đường lối chiến lược cách mạng không phù hợp, thậm chí trái ngược tiến trình chủ đạo của thế giới loài người thời đại mới ngày nay”. Ông cho rằng: “trong 45 năm nay, chủ nghĩa xã hội thế giới lại lâm vào các cuộc khủng hoảng kinh tế- chính trị – tư tưởng – xã hội – đạo lý tiềm ẩn trầm trọng triền miên – rồi nổ tung ra công khai trong vài năm gần đây, dẫn tới sự đổ vỡ tan tành của một loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vẫn được coi là mạnh nhất trước đây. Liên Xô cũng đang trải qua cuộc khủng hoảng toàn diện nghiêm trọng… Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực tan vỡ trước mắt toàn thể nhân loại, thậm chí chỉ trong vòng có một năm (1989) do chính nhân dân các nước ấy tự nguyện phế bỏ. Như vậy, không thể gán ghép tuỳ tiện khiên cưỡng rằng đó là do chủ nghĩa tư bản đế quốc tấn công từ bên ngoài bằng “diễn biến hòa bình”. Phải dũng cảm tỉnh táo mà nhận rằng, dù có cay đắng đến đâu đi nữa, đó là do căn bệnh ung thư tiềm ẩn trong cơ thể xã hội chủ nghĩa tới độ chín nẫu vỡ tung ra”.

JPEG - 8.4 kb

Ông Hoàng Minh Chính cũng viết rằng: “Dự thảo Cương lĩnh chính trị cũng thiếu xuất phát từ thực tại khách quan Việt Nam mà chỉ lấy hệ tư tưởng trừu tượng làm tiền đề. Dự thảo Cương lĩnh nhận định đúng rằng nước là một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu sản xuất nhỏ mà Liên hiệp quốc hiện nay phải xếp vào hàng một trong mười nước nghèo khó nhất trong tổng số 160 nước thành viên. Tuy nhiên dự thảo Cương lĩnh lại viết “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội… bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu cũ vượt xa hơn Việt Nam về toàn diện tới cả nửa thế kỷ, mà họ còn thua kém tới vài thập kỷ so với Tây Âu, nay nhân dân họ đang phải xét lại phương hướng đường đi của đất nước mình. Việt Nam, với nền kinh tế tiền tư bản cực kỳ lạc hậu muốn bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội – vậy bằng cách nào? Sau khi phân tích những kẽ hở của dự thảo Cương Lĩnh, ông Hoàng Minh Chính đã đưa ra 5 đề nghị:

1/Kiên quyết từ bỏ phương pháp luận giáo điều Mao-ít, không lấy hệ tư tưởng trừu tượng bất kể là gì làm tiền đề xuất phát, mà phải lấy thực tại cuộc sống của nhân dân, lấy yêu cầu nguyện vọng cháy bỏng của các giai cấp xã hội Việt Nam đang rên xiết trong cuộc đại khủng hoảng toàn diện hiện nay, làm đối tượng mà vạch ra đường lối, chiến lược, sách lược…

2/Phát huy mạnh mẽ tới hết cỡ các tiềm năng, vật lực, nhân lực, tài lực trí tuệ phong phú của tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, sắc tộc trong nước và Việt kiều, từ nhà tư bản, nhà hữu sản đến người công nhân, nông dân, trí thức miền xuôi, miền núi theo đúng chính sách 5 thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, không bao cấp, chống độc quyền. Pháp chế hoá các chính sách. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải phục tùng các quy luật cung cầu, cạnh tranh công khai hợp pháp, năng động sáng tạo, lợi nhuận cao, phải tư nhân hoá và đa dạng hoá sở hữu.

GIF - 19 kb

3/Tháo gỡ tích cực mấy vấn đề quan hệ quốc tế nóng bỏng nhất, theo tư duy mới của thời đại như Liên hiệp quốc đã đề xướng, để mở đường cho sự đầu tư vốn từ ngoài, để tiếp thu kỹ thuật công nghệ hiện đại, và kinh nghiệm quản lí năng động sáng tạo của các nước tư bản phát triển, NICs và ASEAN. Xây dựng vài đặc khu kinh tế tự do dọc duyên hải bằng vốn nước ngoài. Mạnh dạn quyết tâm vươn lên thành con rồng thứ 5 hoặc thứ 6 trong 1-2 thập kỷ tới.

4/Mạnh dạn gác lại mục tiêu coi là “trước mắt và lâu dài là xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Cần nghiên cứu cẩn trọng, lâu dài, không vội vã. Bởi vì chủ nghĩa xã hội trên lý thuyết do Mác – Ăng-ghen – Lênin sáng lập chỉ mới ở dạng tư duy trừu tượng, giả định. Bản thân của các ông cũng đã phải thay đi đổi lại nhiều lần và nhiều dự báo của các ông đã bị thời gian phủ định…

5/Đảng phải pháp chế hoá quyền lực của mình bằng điều 4 ghi trong hiến pháp năm 1980 rằng: “đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”. Quyền lực tuyệt đối này đã được các cán bộ đảng các cấp, đặc biệt là các cán bộ thoái hoá biến chất, dùng làm vũ khí lộng quyền, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, đàn áp dân, lừa dối, đạo đức giả. Các cán bộ đảng cấp từ trung ương xuống tận cơ sở, họ là nguòi thay mặt đảng, quyền lực tuyệt đối của đảng trở thành quyền lực tuyệt đối của cá nhân họ, nhất là của các Ủy viên thường vụ, đặc biệt là của bí thư – lời họ nói là lời đảng nói…. Cũng do điều 4 đó của hiến pháp mà cấp ủy đảng đứng cao trên hết, trùm lên hết và ra lệnh cho tất cả các cơ quan bộ máy nhà nước, từ cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp tới cơ quan lập pháp; khỏi nói tới các đoàn thể quần chúng và Mặt trận…

Những đề nghị của ông Hoàng Minh Chính rất thẳng và trực diện vào vấn đề nên đã gây khá nhiều lúng túng cho những cán bộ lý luận của đảng Cộng sản vào thời đó. Đây cũng là yếu tố khiến ông bị chế độ Hà Nội cho công an sách nhiễu ông và gia đình liên tục đến những năm sau này, đồng thời liên tục bị các cán bộ phụ trách công tác lý luận mang lên trên mặt báo tấn công bằng những diễn dịch sai lạc và giáo điều.

JPEG - 3.8 kb

Cũng trong thời gian này, tuy không viết dưới dạng của một bài góp ý về bản Dự thảo Cương lĩnh, Tiến Sĩ Phan Đình Diệu, một thành viên của đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc vào lúc đó đã gửi đến Trung ương đảng một “kiến nghị” có tên là “Kiến nghị về một chương trình cấp bách nhằm khắc phục khủng hoảng và tạo điều kiện lành mạnh cho sự phát triển đất nước”. Đi từ những nhận định về thực trạng khủng hoảng, Tiến Sĩ Phan Đình Diệu cho rằng sau năm 1975, đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng vội vã mô hình chủ nghĩa xã hội, đã làm tê liệt phần lớn những năng lực thực sự của đất nước, đồng thời tạo ra sự hỗn loạn và dối trá trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội. Khi đảng đưa ra chính sách đổi mới từ năm 1986, tuy có mang lại kết quả là làm cho cuộc sống đỡ bị trói buộc và dễ thở hơn; nhưng những chính sách và biện pháp đổi mới ngập ngừng, nửa vời chưa đủ sức khơi dậy và phát huy đầy đủ những yếu tố tích cực, trong khi các yếu tố tiêu cực cũ lại có cơ hội đưọc bổ sung thêm bởi những yếu tố tiêu cực mới. Từ những phân tích này, Tiến Sĩ Phan Đình Diệu đề nghị đảng phải nhất quán trong việc xác định mục tiêu hiện thực cho sự phát triển đất nước. Mục tiêu đó là xây dựng “một nền kinh tế thị trường phát triển và một chế độ chính trị dân chủ, đoàn kết và hoà hợp dân tộc”.

Theo Tiến Sĩ Phan Đình Diệu thì việc xác định mục tiêu nói trên là phù hợp với xu thế chung của thời đại, là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Ông cho rằng, từ năm 1986, đảng Cộng sản chuyển dần theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; nhưng vì bị vướng mắc giữa đòi hỏi khách quan thoát khỏi khủng hoảng và những mong muốn chủ quan tiếp tục quan điểm cũ về chủ nghĩa xã hội với chế độ quản lý tập trung, sở hữu nhà nước và kinh tế quốc doanh. Do đó đã nảy sinh nhiều khái niệm tự mâu thuẫn như: nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Theo ông nếu đảng Cộng sản Việt Nam “chọn kinh tế thị trường là hướng đi tới thì cần tạo mọi điều kiện thuận lợi và khuyến khích cho nó nhanh chóng hình thành và phát triển, chứ không nên đối xử ghẻ lạnh bằng những phân biệt và hạn chế. Kinh tế thị trường phát triển khi trong xã hội có sự tự do trao đổi hàng hoá giữa đông đảo các chủ thể kinh tế”. Để nền kinh tế thị trường đáp ứng đúng các chức năng của nó, Tiến sĩ Phan Đình Diệu còn đề nghị thực hiện một chế độ chính trị tôn trọng các quyền tự do dân chủ của mỗi người dân. Ông cho rằng “Chế độ chính trị dân chủ với việc bảo đảm các quyền cơ bản của công dân tự nó đã bao hàm sự thừa nhận tính đa nguyên. Đa nguyên là sự phản ảnh trung thực thực tiễn khách quan của xã hội vào thể chế chính trị. Dân chủ chỉ là sự tôn trọng tính trung thực của sự phản ảnh đó. Phủ nhận tính đa nguyên cũng đồng thời là phủ nhận nền dân chủ. Cần phải nhìn nhận một thực tế là không thể có dân chủ thật sự trong một chế độ có quy định trước sự độc quyền lãnh đạo tập trung của một đảng”.

Trong phần cuối của bản Kiến Nghị, Tiến Sĩ Phan Đình Diệu đã đề nghị một số giải pháp cấp bách mà theo ông là để khắc phục tình trạng khủng hoảng, tạo lập một hoàn cảnh lành mạnh tối thiểu cho sự hoạt động bình thường của một nền kinh tế thị trường mà ta muốn xây dựng, một nền chính trị dân chủ cho mọi năng lực trong xã hội được tự do phát triển, qua một số biện pháp như:

1/Về các giải pháp kinh tế – xã hội: đảng Cộng sản nên: a/Kiên quyết chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với với yêu cầu của kinh tế thị trường, đặc biệt là thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân. b/Tổ chức lại hệ thống bộ máy nhà nước để thực hiện được chức năng quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường. c/Tăng cường và hoàn thiện hệ thống tài chánh và ngân hàng.

2/Về cải cách chính trị: đảng Cộng sản Việt Nam trong các năm 1991 – 1992 nên: a/Mặt trận tổ quốc, được sự hỗ trợ của đảng Cộng sản Việt Nam, hiệp thương với mọi lực lượng của dân tộc, các nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước, để tiến hành đại hội dân tộc và các sinh hoạt chính trị có tính cách dân tộc khác, dưới tiêu đề và mục tiêu chung là đại đoàn kết và xây dựng đất nước. b/Cải tổ bộ máy nhà nước hiện nay, đặc biệt thành lập một chính phủ cải cách cho giai đoạn cấp bách 1991-1992, đó phải là một chính phủ mạnh gồm những người thực sự có năng lực và trí thức để thực hiện có kết quả các giải pháp kinh tế xã hội cấp bách; c/Thực hiện đầy đủ một số quyền tự do dân chủ, đặc biệt là các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội; d/Bầu cử Quốc hội thật sự tự do và công bằng vào năm 1992 hoặc đầu năm 1993. Quốc hội sẽ xây dựng và thông qua Hiến pháp quy định chế độ kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước và chế độ chính trị dân chủ.

Những đề nghị rất tâm huyết của Tiến Sĩ Phan Đình Diệu nói trên nếu được đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng một phần hoặc bán phần vào những năm này thì tình hình không những cải thiện mà đất nước Việt Nam sẽ có những chuyển biến sâu sắc trong thời gian qua. Tiếc thay, lãnh đạo Hà Nội không những không quan tâm đến nội dung Kiến nghị mà còn trù dập và cô lập các hoạt động của Tiến Sĩ Phan Đình Diệu vào những năm sau đó. Đặc biệt là sau khi Giáo sư Phan Đình Diệu trả lời một cuộc phỏng vấn của nhà sử học Na Uy là giáo sư S. Tonnesson, đăng trong một bài báo ở nước ngoài với tựa đề “Giáo sư Phan Đình Diệu: Từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, tiến tới nền dân chủ lưỡng đảng là con đường chuyển hoá đất nước trong ổn định”, liền bị báo Sài gòn giải phóng và báo Nhân Dân liên tục công kích một cách tàn tệ.

JPEG - 7.5 kb

Trong tất cả những nhân vật viết các bài bày tỏ những quan điểm phê phán nội dung Cương Lĩnh cũng như đường lối đổi mới và sự phá sản của chủ nghĩa Cộng sản, ông Hà Sĩ Phu là người mà đảng Cộng sản Việt Nam căm thù nhất vì lối viết sắc bén và tấn công thẳng vào nền tảng lý luận của chủ thuyết Mác – Lênin, qua ba bài viết “Dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của trí tuệ” (tháng 8 năm 1988), “Đôi điều suy nghĩ của một công dân (tháng 5 năm 1993)” và “Chia tay ý thức hệ (tháng 8 năm 1995)”. Chính ba bài viết này, đặc biệt là bài tiểu luận Chia tay ý thức hệ đã khiến cho Hà Sĩ Phu bị đảng Cộng sản Việt Nam quản thúc liên tục từ năm 1997 cho đến nay, sau khi hứng chịu hàng loạt những bài công kích, phê phán và đả kích một chiều của guồng máy tuyên truyền Hà Nội từ trung ương cho đến địa phương.

Trong bài viết: “Dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của trí tuệ”, ông Hà Sĩ Phu đã vạch ra những sai lầm và những điều nghịch lý của chế độ xã hội chủ nghĩa giữa lý thuyết và thực tế. Ông Hà Sĩ Phu đã cho rằng chủ trương đề cao giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo xã hội là một sự ngụy biện của chủ nghĩa Mác và từ đó đã dẫn đến những nghịch lý của xã hội, đó là sự huỷ diệt tri thức. Nghịch lý này theo ông Hà Sĩ Phu là đã làm “Sản xuất không phát triển, năng suất lao động thấp, sản phẩm hàng hóa ít, đời sống khó khăn. Đời sống tinh thần cũng bị hạ thấp do phải lùi bước trước những nhu cầu sinh tồn tối thiểu…’. Ông còn cho rằng ’Khi người chỉ huy không đủ tri thức để điều hành công việc và thuyết phục quần chúng thì họ bị giằng co giữa hai động cơ: Một mặt rất muốn dùng những người trí thức, một mặt lại sợ trí thức. Để có thể che giấu sự kém cỏi của mình, để được yên tâm tọa hưởng giữa nơi mập mờ, lùng nhùng, họ không dám thực sự nâng cao dân trí, không dám cho dân phát triển dân chủ, tự do. Ánh sáng trí tuệ đối với họ lúc này lại là điều bất lợi…”

Trong bài viết “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”, ông Hà Sĩ Phu đã nhận định rằng sự sụp đổ và tan rã các thể chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là ’sự sụp đổ có tính cội nguồn, triệt để và toàn cục’. Từ cái nhìn này, ông Hà Sĩ Phu đã phân tích mối tương quan giữa con người và xã hội trong cái nhìn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, để phê phán những sai lầm của Mác trong các quan niệm về đấu tranh giai cấp, về bóc lột, về ý niệm quốc gia, về bạo lực cách mạng và về tiến hóa xã hội. Bên cạnh đó, ông Hà Sĩ Phu cũng đã đưa những suy nghĩ nói trên, đặt trong tính cách Việt Nam với ba sự nhận xét rất đặc biệt của ông như sau: 1/Việt Nam mạnh về nghĩa hợp quần, yếu về ý thức xã hội; 2/Đạo Trung Dung bị hạ thấp thành phương châm Yên thân, nhẫn nhục; 3/Chống chính thống bằng con đường không chính thống. Ba yếu tố này, theo ông Hà Sĩ Phu đã giúp cho người Việt Nam vượt qua khó khăn nhưng đã trả giá cho chúng bằng sự ’tha hóa con người, tha hóa dân tộc’. Trả giá bằng sự lưu manh hóa, không phải lưu manh theo nghĩa thông thường mà là sự lưu manh lịch sử. Do đó ông đã kết luận rằng: ’Từ bỏ một ý thức hệ độc tôn ngoại lai, không còn thích hợp với đất nước và thời đại là điều kiện thiết yếu để có thể xóa bỏ hận thù, góp sức, chung lòng đưa đất nước phát triển, là điều kiện thuận lợi để hòa nhập vào thế giới chung, và chỉ có thế dân tộc mới có khả năng thoát khỏi sự o ép của Tư bản nước ngoài.


Trong loạt bài ’Chia tay ý thức hệ’, ông Hà Sĩ Phu đã đặc biệt trình bày về những khủng hoảng của triết học Mác Lê, dẫn đến những dự phóng sai lầm của Mác đã làm hại nhân loại ra sao. Đồng thời ông cũng phân tích tính văn hóa thấp của trào lưu cộng sản, đã cản trở trong việc nhận thức thời đại để có cái nhìn sáng suốt và thực tiễn trước những yêu cầu khách quan của thời đại. Ông viết ‘Khi mọi lý luận cũng như thực tế đã phơi bày đến mức này, nếu quả thật cả dân tộc 70 triệu này vẫn cứ nhất tề giữ vững cái ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ ấu trĩ do các thế hệ thiệt thòi trước kia đã chọn (như lời đảng ta khẳng định) thì hóa ra cả Dân tộc chỉ là một đàn vịt hay sao? Coi ‘dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là chủ nghĩa xã hội thì chứng tỏ đảng ta đã khinh cái dân tộc này không còn ai biết gì, vì đó chỉ là câu nói đùa’. Trong lời kết của loạt bài này, ông đã nói lên nỗi trăn trở của mình khi nghĩ về ý thức hệ Mác -xít. Ông viết ‘Tôi thấy rõ đây là ý thức hệ phong kiến trá hình, của triều đại phong kiến cuối cùng, đang kìm hãm sự tiến bộ xã hội, và được dùng làm bình phong cho những yếu tố tiêu cực ẩn náu. Ít ai có ý nghĩ muốn phá cái bình phong ấy đi, trái lại ứng xử theo kiểu: Cứ để nó đấy , anh nấp tôi cũng nấp’. Chính vì dám nói lên sự thật phũ phàng về cái bình phong Mác-xít và lối sống đầy ngụy biện của các quan chức cộng sản ngày nay, ông Hà Sĩ Phu đã bị giới công an tư tưởng trả thù một cách tàn bạo bằng bao vây kinh tế lẫn khủng bố tinh thần trong hơn 1 thập niên qua.

Nói chung, những lý luận và những quan điểm của các nhà trí thức đối kháng đã làm cho các cán bộ phụ trách công tác lý luận của đảng Cộng sản Việt Nam vô cùng bối rối và lúng túng trong cách phản luận. Họ chỉ được học như con vẹt để tuyên truyền một chiều, nên khi đối diện với những lý luận khoa học và thực tiễn của thời đại, giới công an tư tưởng của Hà Nội đã phải dùng đến bạo lực và gán ghép những luận điệu ‘phản bội’, ‘chống đảng’ hầu triệt hạ uy tín và đời sống của những nhà trí thức có tâm huyết vì dân tộc. Điều cần quan tâm là những nhà trí thức đối kháng lên tiếng trong thời kỳ này đã bị Hà Nội cô lập rất nặng nề và thiếu phương tiện phổ biến nên đã không tạo được sự chú ý và hưởng ứng trong quần chúng.

Du Sinh và Công Nhân Hợp Tác Đã Đứng Lên Trong Lòng Quốc Tế Vô Sản

JPEG - 14.2 kb

Những biến cố xảy ra tại các nước Cộng sản ở Đông Âu vào lúc đó không chỉ tác động lên tình hình người Việt ở trong nước mà còn tạo ra nhiều biến chuyển sâu sắc lên khối người Việt đang học tập và làm việc tại đây. Cho đến năm 1991, số người Việt Nam đang du học, tu nghiệp và lao động tại những nước Đông Âu và Liên Xô cũ lên đến khoảng 400 ngàn người. Đa số tập trung ở Liên Xô cũ khoảng non 200 ngàn người. Tiệp Khắc vào khoảng 30 ngàn người. Đông Đức vào khoảng 70 ngàn ngưới. Ba Lan vào khoảng 15 ngàn người. Số còn lại sống rải rác tại Bulgaria, Hung Gia Lợi, Nam Tư và Romaniaa. Vào thời điểm này, đa số sang sống tại đây vì lý do kinh tế. Cuộc sống của họ được coi là tạm bợ với mục tiêu kiếm tiền để chuyển về nước giúp thân nhân và chuẩn bị cho cuộc sống tốt hơn trong tương lai ở Việt Nam. Cách hành xử của họ chủ yếu là thu mình tránh né mọi đụng chạm bất lợi với chính quyền hai nước và dân chúng sở tại. Trong trường hợp có đụng chạm, dù bất cứ hình thức nào, họ sẵn sàng chịu thua, chấp nhận mất mát, kể cả tài sản để được yên thân với hy vọng có thể tiếp tục ở lại và kiếm tiền, vì sứ quán không bao giờ bảo vệ họ. Nền kinh tế thiếu tổ chức, khủng hoảng và thiếu hụt của các nước cựu xã hội chủ nghĩa ở đây là cơ hội cho những người giỏi mánh mung buôn bán kiếm tiền và đã có nhiều người buôn bán rất giàu.

Do đó, buôn bán kiếm tiền đã trở thành phong trào, lôi kéo hầu hết mọi người kể cả nhân viên và viên chức trong bộ máy chính quyền Cộng sản Việt Nam (sứ quán, cơ quan, đoàn thể, công ty nhà nước) đại diện ở các nước tại Đông Âu và Liên Xô cũ. Vì những quan hệ phức tạp trong việc buôn bán, người Việt ở đây là một cộng đồng khá ô hợp, thiếu tổ chức và được chia thành những phường, hội, phe nhóm theo đường dây làm ăn riêng. Riêng tại Liên Xô cũ, tình trạng người Việt rất ô hợp, không có quan hệ cộng đồng và tình trạng trấn lột, cướp bóc giữa người Việt với nhau là hiện tượng phổ biến vào thời đó. Do cuộc sống khó khăn và bị nhiều sức ép như vậy, hầu hết người Việt ở đây, tuy không ưa chế độ cộng sản nhưng không quan tâm mấy về vấn đề chính trị và nếu có bất mãn thì cũng chỉ biểu hiện dưới hình thức tiêu cực như chửi rủa, mỉa mai, chán chường và bất hợp tác mà thôi. Lý do chính là đa số vẫn chưa thoát khỏi nỗi sợ hãi chính quyền, vì trước mặt là họ phải trở về Việt Nam. Hơn nữa họ bị sự chèn ép quá mạnh của hệ thống đảng, đoàn, đội trưởng thông dịch và sứ quán nên đành phải giữ thái độ im lặng.

Từ cuối thập niên 80, cuộc cách mạng dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu bùng nổ đã mang một làn gió dân chủ, tự do đến với khối người Việt và làm cho tư duy của họ có sự chuyển biến rõ rệt. Những chính sách mới của các chính phủ dân chủ tại đây cho phép người Việt được tạm thời ở lại dù đã hết thời hạn lao động hay du học với điều kiện tự túc nên đã giúp cho đa số buông ra khỏi tầm kiềm chế của sứ quán. Những yếu tố này đã làm tan rã hệ thống quản lý của sứ quán. Phong trào đòi dân quyền của người Việt nổi lên, cũng từ đó các khuynh hướng dân chủ bắt đầu hình thành và tìm cách liên lạc, phối hợp với những phong trào dân chủ bên Tây Âu. Tuy người Việt tại Đông Âu và Liên Xô cũ đều mong muốn đất nước thay đổi có tự do dân chủ, nhưng sự suy nghĩ và phương cách hoạt động của họ còn có rất nhiều dị biệt với cộng đồng người Việt phía Tây Âu. Phần lớn bị ảnh hưởng tuyên truyền của Hà Nội vào thời gian trước đó nên họ có chung một cái nhìn là cộng đồng người Việt phía Tây cực đoan, quá khích, mang âm điệu phục quốc, trả thù nên họ rất ngại liên lạc.

Khi các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức thoát khỏi gọng kềm của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô ở trong tình trạng rối loạn vào khoảng năm 1990 thì người Việt tại đây chủ yếu là các du sinh, nghiên cứu sinh đã chủ động đứng ra phát hành những tờ báo phổ biến các tin tức liện quan đến những thay đổi ở Đông Âu. Có người còn tập hợp một số anh chị em thiện chí lập ra tổ chức, phong trào đấu tranh. Vào giai đoạn này, đáng kể nhất là phong trào dân chủ hình thành tại Liên Xô và Tiệp Khắc, Đông Đức, Bulgaria.

Tại Tiệp Khắc, sinh viên học ở thành phố Plzen và Praha đã khởi xướng phong trào dân chủ qua việc thực hiện những tờ báo mang tên Tuổi Trẻ, Diễn Đàn (Praha); Điểm Tin Báo Chí (Plezen); Thời Mới (Ostrava & Zlin) và nhiều bản tin khác, được đông đảo mọi người hưởng ứng. Phần lớn anh chị em sinh viên trong phong trào quy tụ quanh tờ báo, chuyên chở những tin tức về cuộc cách mạng ở Đông Âu và những bài quan điểm chống chế độ độc tài Cộng sản. Ngoài ra vào lúc đó, một số anh chị em sinh viên đã thực hiện được một chương trình phát thanh Việt ngữ tại Praha, tuy chỉ phát nửa giờ mỗi tuần trên làn sóng FM. Ngoài ra, qua sự hỗ trợ của một giáo sư người Tiệp Khắc, nhóm sinh viên tại Praha, Plzen đã thường xuyên tổ chức nhiều cuộc hội thảo chính trị về tự do, dân chủ và đã mời nhiều đại diện của các Tổ chức đấu tranh ở bên Tây Âu sang tham dự và trao đổi. Đặc biệt là trong hai ngày 14 và 15-12-1990, đại diện của các tờ báo Diễn Đàn, Điểm Tin Báo Chí… đã tổ chức một cuộc hội thảo chính trị, thành lập Trung Tâm Liên Kết Người Việt tại Tiệp, do anh Trương Minh Dũng làm đại diện, để nuôi dưỡng phong trào đấu tranh và công bố một bản tuyên cáo được coi như bản Cương Lĩnh của Trung Tâm Liên Kết vào lúc đó, có nội dung như sau:

Ngày 10-12-1948, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua quyết định số 217/III về bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và đã chỉ rõ: “Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc xem bản Tuyên Ngôn này như là mục đích chung của tất cả các dân tộc, tất cả các quốc gia đẻ mọi người, mọi tổ chức xã hội luôn có nó trong ý nghĩa để cố gắng tuyên truyền giáo dục cho mọi người lòng kính trọng những quyền và sự tự do của người khác, để từng bước bằng những biện pháp hiệu quả trong đất nước mình hoặc trên trường Quốc tế, tôn trọng và bảo vệ nó trong nhân dân của các nước thành viên, cũng như tất cả mọi nơi trên trái đất”. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cam kết bằng chữ ký của mình tuân theo bản tuyên ngôn nhân quyền này. Nhưng trong thực tế, với chế độ độc tài độc đảng, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã luôn luôn vi phạm nghiêm trọng tới những quyền tự do cơ bản của con người. Vì lẽ đó chúng tôi yêu cầu:

1/Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải hủy bỏ điều 4 trong Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo độc quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, điều 2 về chuyên chính vô sản, điều 6 về nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính những điều quy định này đã đưa chế độ tại Việt Nam thành một chế độ độc tài, phản lại những quyền tự do tối thiểu của con người.

2/Phải tổ chức bầu cử tự do dưới sự kiểm soát quốc tế để nhân dân Việt Nam được tự do lựa chọn người đại diện của mình.

3/Phải lập tức hủy bỏ những điều luật vô lý cấm người dân tự do đi lại, huỷ bỏ chế độ hộ khẩu, và công an trị. Chấp nhận chế độ tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tư tưởng. Chỉ có như vậy nhân dân Việt Nam mới có thể được hưởng những quyền mà Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nêu ra là bình đẳng như mọi người trên thế giới.

Ngoài ra, ngày 15-6-1991, công nhân và sinh viên tại Tiệp đã cùng nhau tổ chức một cuộc biểu tình ngay trước sứ quán Cộng sản Việt Nam tại Praha phản kháng việc chính quyền bắt giữ nhà văn Dương Thu Hương và nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Mặc dù chính quyền Tiệp cho phép các du sinh và công nhân ở lại Tiệp nhưng giấy tờ hộ chiếu vẫn nằm trong sự kiểm soát của sứ quán Cộng sản Việt Nam, vì thế mà những người lãnh đạo phong trào đấu tranh tại Tiệp đều bị sứ quán trù dập, gây khó khăn nên đa số đã phải rút vào hoạt động bí mật và những tờ báo chỉ nuôi dưỡng được đến khoảng giữa năm 1992 thì phải đình bản và nhân sự của các nhóm này tản mác đi các nơi, đa số là qua Đức xin tỵ nạn chính trị.

Tại Liên Xô, khi phong trào dân chủ tại Ba Lan bộc phát, khoảng giữa năm 1988, một số sinh viên và nghiên cứu sinh thuộc trường đại học Tổng Hợp Thành phố Mạc Tư Khoa đã xuất bản tờ đặc san “Tuổi Trẻ” phổ biến những bài viết phân tích về tính không tưởng của chủ nghĩa xã hội và đề nghị xây dựng xã hội dân chủ đa nguyên tại Việt Nam. Ngoài ra, anh chị em sinh viên cũng đã phóng ảnh và chuyền tay nhau đọc nhiều bài viết của những văn nghệ sĩ ở trong nước như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Mạnh Hảo… cũng như các diễn biến xảy ra tại các nước Đông Âu vào thời đó, tạo ra một không khí phấn khởi trong hàng ngũ người Việt tại Liên Xô. Giữa năm 1989, sứ quán và cơ quan an ninh của Hà Nội bắt đầu hoạt động bằng cách dọa dẫm và dẫn giải những người chủ chốt về nước. Từ đó, phong trào phải chuyển sang hoạt động bí mật, tung truyền đơn tố cáo các hành động khủng bố của sứ quán và đòi tự do dân chủ. Đến đầu năm 1990, ngoài tờ Tuổi Trẻ, còn có thêm những tờ báo khác như Dân Việt, Bản Tin Kinh Tế xuất hiện ở Mạc Tư Khoa, Tuổi Trẻ ở Kiev và Người Bạn Đường dưới dạng văn học nghệ thuật tại thành phố Leningrad; đồng thời nhiều tờ báo xuất bản tại Tiệp, Đông Đức, Ba Lan cũng được lưu hành rộng rãi tại Liên Xô vào thời đó. Nhìn chung, những phong trào này đều mang tính cách tự phát, thiếu tổ chức và thiếu sự liên kết giữa các nhóm tranh đấu với nhau vì thiếu căn bản từ đầu là không có sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, giống như tại Tiệp, vì để tránh sự trù dập và đàn áp của sứ quán, nhất là để cảnh giác sự trà trộn “người của sứ quán” nên hầu hết những thành viên trong các nhóm đấu tranh đều ẩn danh, hoạt động bí mật nên rất khó liên kết với nhau.

Riêng tại Đông Đức và Bulgaria, lúc đầu những nhóm sinh viên tại đây chỉ phổ biến những tờ báo xuất bản ở nơi khác cho bạn bè quen biết. Mãi đến năm 1990 khi một số sinh viên Việt Nam chạy trốn sứ quán từ Tiệp và Liên Xô qua Đông Đức, thì phong trào đấu tranh tại Đông Đức mới đa dạng với sự xuất hiện của nhiều tổ chức đấu tranh như Tổ Chức Dân Chủ Việt Nam phát hành tờ Cánh Én, Đảng Xã Hội Dân Chủ Việt Nam ra tờ Tia Sáng, Đảng Việt Nam Mới ra tờ Việt Nam Mới và một số tờ báo khác nhau như Diễn Đàn Tự Do Dân Chủ, Thiện Chí, Ngày Mới… tuy nhiên số lượng phát hành không nhiều và chỉ trong vòng nội bộ. Tại Bulgaria, từ năm 1991, nhóm sinh viên thanh niên tại Sofia đã cho ra tờ Tiếng Nói loan tải nhũng tin tức và các bài quan điểm chống chính quyền Hà Nội. Đặc biệt là tại Thủ đô Sofia, đã xảy ra một cuộc xô xát mang tính cách kỳ thị giữa công an Bulgaria và công nhân hợp tác lao động Việt Nam, khi hàng trăm công an tấn công vào ký túc xá Krasna Poliana vào lúc 3 giờ chiều ngày 17-3-1991. Cuộc đàn áp này là một loạt những hành động kỳ thị và khủng bố người Việt có sự tiếp tay của sứ quán Cộng sản Việt Nam trong mục tiêu triệt hạ những sinh viên, công nhân dám kích động người Việt tại Bulgaria đấu tranh đòi tự do dân chủ tại Việt Nam. Cuộc tấn công vào ký túc xá Krasan Poliana của công an đã khiến cho 2 công nhân Việt Nam bị thiệt mang, 10 người bị thương nặng và hơn 50 người bị bắt giữ. Sau đó, sinh viên và công nhân tại Bungari đã phát động phong trào đấu tranh để đòi chính quyền Bulgaria giải quyết, nhưng thay thì giải quyết rốt ráo vấn đề chính quyền Bulgaria lại làm khó dễ tình trạng lưu trú của sinh viên và công nhân nên một số anh chị em chủ chốt phong trào đã phải lánh nạn sang quốc gia khác, khiến cho Phong trào đấu tranh tại Bulgaria bị tàn lụi vào đầu năm 1993.

Trước tình hình suy yếu chung của các phong trào đấu tranh, những thành viên hoạt động tích cực trong các tờ báo và trong các nhóm đã tổ chức cuộc gặp gỡ thân mật giữa những người Việt đang sống tại các nước cựu Cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô cũ vào hai ngày 27 và 28-2-1993 ở Neuburg / Donau, Đức Quốc để hình thành một tổ chức chung. Đây có thể coi là một nỗ lực đáng được ca ngợi của các thành viên trong những đoàn thể, tổ chức người Việt tại các nước cựu cộng sản Đông Âu và Liên Xô, cố gắng tạo dựng lại lực lượng hầu tiếp tục đấu tranh trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và phức tạp. Đáng tiếc là do áp lực của đời sống và nhất là áp lực của vấn đề cư trú, các nỗ lực đấu tranh của du sinh và công nhân hợp tác tại Đông Âu và Liên Xô bị phai nhạt dần từ năm 1995 trở đi.

Việt Kiều Yêu Nước Ra Kiến Nghị Đòi Hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam Thay Đổi

Vào tháng 4 năm 1975, trong lúc hàng triệu người Việt bỏ nước tìm tự do tại các trại tỵ nạn tại Đông Nam Á, thì cũng có hàng trăm sinh viên du học ra đi từ miền Nam Việt Nam đã ‘hồ hởi’ ca tụng sự cưỡng chiếm miền Nam của đảng Cộng sản Việt Nam. Những ngưòi này đã quy tụ chung quanh sứ quán Cộng sản và dựng lên các Hội Việt Kiều Yêu Nước tại một số quốc gia tiêu biểu như Pháp, Gia Nã Đại, Tây Đức, Thuỵ Sĩ, Bỉ, Nhật, Hoa Kỳ… Nhưng đến đầu thập niên 80, hầu hết các Hội Việt Kiều ‘yêu nước’ này đều đi vào thời kỳ suy yếu và khủng hoảng cùng cực vì đa số mất niềm tin vào chế độ do những chính sách sai lầm của đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói là vào thời kỳ này, hội viên thì xa lánh hội còn các hội thì xa dần chế độ, thậm chí những buổi tiếp đón các quan chức của chế độ ra công cán hải ngoại đã không ai thèm đến hoặc đến cho có lệ xong rồi mạnh ai nấy ra về. Tuy nhiên, từ năm 1986, khi đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra chính sách đổi mới, một không khí mới đã phát sinh trong các Hội Việt Kiều. Đầu năm 1987, Hội Người Việt Yêu Nước tại Tây Đức do Bùi Văn Nam Sơn làm chủ tịch đã đi bước tiên phong tổ chúc đại hội với khẩu hiệu ‘Vì một nước Việt Nam đổi mới, năng động và phát triển’, đưa ra một kiến nghị kêu gọi mọi thành viên ủng hộ chính sách đổi mới của đảng. Nương theo khí thế này, các Hội Việt Kiều Yêu Nước khác cũng tổ chức đại hội, ra kiến nghị ủng hộ đổi mới và thành lập nhiều phái đoàn Việt kiều về nước gặp gỡ giới lãnh đạo đảng, phát biểu ý kiến về nhu cầu đổi mới trên đài và trên báo chí nhà nước.

JPEG - 14.3 kb

Đến năm 1988, Nguyễn Văn Linh ra lệnh xiết lại và phê phán gay gắt những ai đòi dân chủ đa nguyên, đã làm cho phong trào ủng hộ đổi mới của Việt Kiều xẹp xuống và tạo ra một sự phẫn nộ trong một số Việt Kiều về thái độ cực quyền của đảng Cộng sản. Tờ Đất Việt, vốn là tờ báo của Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Gia Nã Đại, đã từng thay mặt toà đại sứ Hà Nội một thời gian khi Hà Nội không đủ tiền cử đại sứ ở nước này, đã lên tiếng công kích đầu tiên về chính sách xiết lại của Nguyển Văn Linh. Trong một bài viết ký tên Trương Tam, bút hiệu của một bác sĩ từng là Trưởng ban học tập của phong trào, tác giả đã viết một bài nhận định về bản chất của đảng Cộng sản với tựa đề ‘Suy nghĩ về đổi mới’, được coi là cấp tiến nhất của Phong trào Viêt Kiều vào thời đó. Một đoạn trong bài viết này được trích dẫn như sau:

‘Nỗi thống khổ và thời gian không cho phép chúng ta trù trừ làm thỏa thuận mãi được. Đảng nên tự giải tán để trả lại chức năng quản lý cho nhà nước, quyền làm chủ tập thể cho nhân dân. Mọi việc không phải Bộ chính trị, rồi Ban chấp hành trung ương thông qua, mới đến Quốc hội. Hội đồng chính phủ phải thực hiện rồi v.v… và v.v… Mọi thứ trật tự vẫn làm tê liệt xã hội. Quốc hội mới là cơ quan thực sự tập hợp những con người ưu tú nhất của đất nước. Chính phủ được cởi trói mà có chính sách rộng rãi, các tổ chức nhân dân sẽ giữ vai trò ‘dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra’. Khoa học, văn hoá, văn nghệ v.v… mới có cơ mà phát triển. Đồng thời với sự giải tán của đảng, Quốc hội phải sửa đổi Hiến pháp, bỏ độc quyền lãnh đạo, cho phép tổ chức nhiều đảng phái (trong điều kiện lịch sử của dân tộc, các đảng phái không thể mang ý nghĩa và tính chất chính trị và giai cấp tranh giành quyền lực như các đảng phái cổ điển ở các nước tư sản), đặt vấn đề nhiệm kỳ có giới hạn, lập các hội đồng cố vấn, bảo đảm tính luân chuyển và kế thừa v.v… Quyền làm chủ tập thể tự nó sẽ được xác lập vì là động lực và mục tiêu của xã hội. Một xã hội như thế có phải là vô chính phủ? Theo thiển ý, một kiến thức thượng tầng thể hiện được tính đa dạng và phức tạp của cuộc sống sẽ rất vững chắc, nó mở cửa ra tương lai và biết rút ra nhanh chóng những bài học của quá khứ. Lòng tin vào cuộc sống sẽ trở lại, mọi người, trong điều kiện của từng người, sẽ tham gia xây dựng và kiện toàn cơ chế mới đó..’

Bài viết của Trương Tam cũng như nhiều bài viết khác của những thành viên đã từng hoạt động tích cực trong phong trào Việt Kiều yêu nước đã khiến đảng Cộng sản lo ngại và ra lệnh cho các ban chấp hành Hội kiểm thảo. Tình hình này đã dẫn đến nhữrng xung đột dữ dội giữa những thành viên ủng hộ và chống lại lệnh ‘kiểm thảo’ của đảng, khiến cho các Hội Việt Kiều Yêu nước bị phân hoá trầm trọng. Các hội bị bể ra làm nhiều nhóm nhỏ, mất dần sinh khí hoạt động. Tháng 5-1989, tại hội nghị Việt Kiều tổ chức ở Tây Đức, một lần nữa Hội Việt Kiều yêu nước đã khẳng định khoảng cách giữa các hội, các tờ báo với chế độ ở Việt Nam. Tại đây, các đại diện của những Hội Việt Kiều yêu nước phê phán tính cách độc đoán của đảng Cộng sản Việt Nam, và kiến nghị ban lãnh đạo chấp nhận chế độ đa đảng. Tờ Diễn Đàn Mới ở Bỉ đã công khai chống lại chuyên chính ở Việt Nam. Tờ Đất Việt ở Gia Nã Đại, Tờ Đoàn Kết ở Pháp, Đất Nước ở Úc, Nước Việt tại Thuỵ Sĩ, Đất Nước ở Đức… đã liên kết với nhau tạo thành một diễn đàn chống lại thể chế chuyên chính tại Việt Nam. Cuối năm 1989 sang đầu năm 1990, hàng loạt kiến nghị, tâm thư và tuyên bố của các Hội Việt Kiều yêu nước tung ra đã tạo thành một phong trào khá rầm rộ đòi hỏi chế độ phải thay đổi.

Đặc biệt, ngày 22-1-1990, một Tâm Thư gửi lãnh đạo Hà Nội về việc cải tổ hệ thống chính trị tại Việt Nam, đã được truyền nhau trong giới lãnh đạo của các Hội Việt Kiều Yêu Nước, thu hút khoảng 600 người ký tên có nội dung như sau:

“Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bẳng cách:

1/Thực sự tách rời những định chế của nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, tư pháp của mình, và để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối nhà nước.

2/Thiết lập một nền dân chủ đa nguyên thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng… nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo tham gia luận bàn và đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.

3/Ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho mọi chế độ thật sự lấy dân làm gốc.

Bản Tâm Thư đã không chỉ bị đảng Cộng sản Việt Nam liệt vào loại “phản động” mà còn tố cáo những người ký tên là có âm mưu chống lại đảng và nước Cộng sản Việt Nam. Hà Nội đã ra lệnh cho các sứ quán không cấp chiếu khán cho những ai đã ký vào Tâm Thư, thậm chí trục xuất một Việt Kiều khi về tới phi trường. Song song, Cộng sản Việt Nam đã cử một số cán bộ cao cấp kín đáo ra hải ngoại tiếp xúc với một số hội viên các Hội Việt Kiều để chiêu dụ và tạo sự phân rã hàng ngũ các Hội Việt Kiều Yêu Nước. Trước những hành động trấn áp của Hà Nội, đa số các thành viên của những Hội Việt Kiều Yêu Nước đã chùn bước không dám đòi hỏi mạnh nữa vì sợ bị ghi vào sổ đen không cho về Việt Nam; một số nhỏ tuy không bất mãn với đảng Cộng sản Việt Nam nhưng rút vào bóng tối, viết bài phê phán chế độ chứ không còn công khai chỉ trích như thời gian qua. Nói chung, phong trào dâng kiến nghị của các Hội Việt Kiều Yêu Nước bộc phát trong ba năm từ năm 1988 đến năm 1990 thì tàn lụi theo thời gian.


Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Tại Hải Ngoại Với Phong Trào Đấu Tranh Giành Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam

Nhờ sống trong môi trường tự do dân chủ và nhờ được thừa hưởng trực tiếp những thành quả của cuộc cách mạng tin học ngay vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, Cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã theo dõi rất kỹ và rất sát về mọi biến động xảy ra tại các quốc gia cộng sản vào thời gian này, bắt đầu từ biến cố Thiên An Môn (6/1989) ở Trung Quốc,sang đến cuộc đấu tranh ngoạn mụccủa Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan rồi đến các cuộc biểu tình rầm rộ tại Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, ĐôngĐức, Bulgaria, Romania… cho đến cuộc đảo chánh bất thành của nhóm giáo điều, đưa đến sự sụp đổ củađếquốc Liên Xô vào cuối năm 1991. Những tin tức nóng bỏng và dồn dập này đã tác động lên lòng nhiệt thành đấu tranh của người Việt tỵ nạn nên có thể nói là ở khắp nơi, người Việt tỵnạn và các đoàn thể, tổ chức đấu tranh đã cùng nhau hợp tác hình thành những phong trào đấu tranh với hai nỗ lực: 1/Hỗ trợ các cá nhân, đoàn thể đấu tranh tại quốc nội để đẩy mạnh sự ra đời của các phong trào đấu tranh quần chúng như cácquốc gia Đông Âu; 2/Vận động áp lực quốc tế can thiệp, bảo vệ sự lên tiếng đòi đa nguyên đa đảng của các nhà đối kháng, các văn nghệ sĩ tại Việt Nam.

Để thực hiện hai mục tiêu đấu tranh này, các đoàn thể, đảng phái và Cộng đồng người Việt Nam đã tiến hành nhiều loại công tác và sinh hoạt khác nhau, từ tháng 6-1989 kéo dài cho đến cuối năm 1993, với ba thời kỳ đáng chú ý.

JPEG - 18.9 kb

Thời kỳ thứ nhất bắt đầu từ tháng 6-1989 đến tháng 9-1990. Đây là giai đoạn ’trăm hoa đua nở’ với sự xuất hiện của hàng trăm bản tuyên ngôn, tuyên cáo ký tên bởi các cá nhân, đoàn thể, đảng phái, tổ chức đấu tranh, Cộng đồng, các Hội thanh niên sinh viên… trên toàn thế giới, kêu gọi thành lập các phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ cho Việt Nam. Hầu hết các tuyên ngôn, tuyên cáo của các phong trào đấu tranh vào lúc này đều có chung một số nhận định như sau:

“Bên cạnh những reo hò chiến thắng của bao triệu con người từ Ba Lan qua Hung Gia Lợi; từ Đông Đức qua Tiệp Khắc; từ Tiệp Khắc đến máu và nước mắt vinh quang của quần chúng Romania trước bầu trời Tự Do và Dân Chủ…. Thế mà người ta còn phải chứng kiến guồng máy độc tài đảng trị vẫn ngang nhiên ngự trị và thách đố trước lương tâm của nhân loại và vẫn dối Trời hại Dân, gian xảo đủ muôn ngàn lối để được ăn ngồi an nhiên trên những chiếc ghế quyền lực đã vấy máu đồng bào, ngập tràn nước mắt quê hương. Vì đặc quyền đặc lợi của một số ít người mà hơn sáu chục triệu người phải nai đôi vai gầy yếu gánh vác đủ mọi hình thái của điêu linh thống khổ. Kễ từ cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 dân tộc Việt Nam đã phải trải qua 45 năm ròng rã để ôm căm hờn trong đáy lòng tủi nhục câm nín.

Lớp người lãnh đạo cộng sản hiện nay vẫn còn lạc hậu, quan liêu, phong kiến, độc tài. Chế độ chính trị không chỉ tạo nên những luật lệ bất chính, những thủ tục bất công với cùm kẹp sưu cao thuế nặng để ngang nhiên cướp nhà, cướp của, cướp ruộng, cướp vườn, chẳng những thế mà còn cướp vợ, cướp chồng, cướp con cái của bao triệu gia đình…. Trước mối thù lớn của dân tộc, trước một thiểu số lãnh đạo ù lì, tiêu cực ngoan cố, ương ngạnh, bảo thủ, quan liêu, phong kiến, độc tài, bao nhiêu chiến sĩ ái quốc của dân tộc trong hàng ngũ kháng chiến cũ đã bị lừa dối, bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng nhục chỉ vì những người ấy không còn tin tưởng vào guồng máy lãnh đạo đảng Cộng sản và đa số cá nhân của những kẻ đương quyền, nhưng trong tận cùng tuyệt vọng và cô đơn, tiếng nói của lương tâm các chiến sĩ dân tộc vẫn tiếp tục vang dội vào tâm thức uất nghẹn của toàn dân…

Rồi đây khi ngọn cờ Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền đã đóng xong vai trò của nó thì ngọn cờ Chính thống Dân Tộc sẽ xuất hiện lại trên dòng sử mệnh của quốc dân để réo gọi trăm con trở về quần tụ, keo sơn gắn bó bên nhau như cha bên con, vợ bên chồng, như anh em, bạn bè ruột thịt bên nhau để tạo dựng nên một người mới thay thế mẫu người quan liêu, phong kiến lạc hậu, mẫu người Cộng sản, mẫu người thuần tuý vì lợi vì danh đang bị thiêu đốt bởi lửa của thời gian thử thách….

Giờ của lịch sử đã điểm dưới ánh sáng chói chang của hồn thiêng sông núi và theo tiếng sóng thét vang của các Anh Hùng Dân Tộc tự ngàn xưa. Ngọn cờ đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền sẽ phất phới bay cao phủ bóng mát xuống khắp giang sơn gấm vóc xua đuổi hết những ngọn lửa bạo tàn, để quốc dân ta được thở lại không khí Tự Do, lại được hưởng cơm no áo ấm trong cái thắm thiết của Tình Tự Dân Tộc nghĩa Đồng Bào…

Khởi đầu của nỗ lực này là từ anh chị em thanh niên sinh viên Việt Nam tại Liên bang Úc Châu, đã kết hợp tổ chức cuộc tuần hành nhân quyền tại Thủ đô Canberra Úc Châu và đưa đến sự ra đời của Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên Tranh Đấu vào tháng 6-1989. Sự lên tiếng kêu gọi đấu tranh của Phong Trào Thanh Niên tại Úc được đưa ra cùng lúc với cuộc thảm sát của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với hàng ngàn sinh viên tại Thiên An Môn vào ngày 11-6-1989 đã kích thích giới thanh niên sinh viên Việt Nam ở khắp nơi tham gia, khiến cho nhiều đoàn thể quốc gia phải đứng lên nhập cuộc. Vì thế mà không đầy 10 tháng kể từ tháng 6-1989 đến tháng 7-1990 đã có gần 30 phong trào đấu tranh của giới trẻ và của các đoàn thể, cộng đồng người Việt tham gia như tại Nam California, Bắc California, Houston, Paris, Tokyo, Toronto, Seattle, Sydney, Melbourne, Genève, Oslo… Những phong trào đấu tranh này đã cùng tham dự một đại hội tổ chức vào tháng 7 năm 1990 tại Paris để bàn về những phương thức phối hợp đấu tranh hầu nuôi dưỡng cho phong trào đi lâu dài. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà các Phong Trào đấu tranh ở khắp nơi có chung một điểm tựa để cùng liên kết với nhau và phát huy các nỗ lực đấu tranh theo môi trường chung quanh. Lập trường đấu tranh của các Phong Trào Giành Tự Do Dân Chủ vào lúc này đều có chung một nền tảng:

1/Tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. 2/Sát cánh với mọi phong trào chống đối trong nước. 3/Hỗ tương yểm trợ công cuộc đòi hỏi đổi mới, đòi xét lại chế độ Cộng sản từ căn nguyên để trở về với lập trường dân tộc của anh chị em cán binh, văn nghệ sĩ, trí thức trong hàng ngũ Cộng sản. 4/Tranh đấu để tiến đến tự do dân chủ đa nguyên, nhưng không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản và tệ nạn quan liêu, phong kiến dưới bất cứ hình thức nào tại Việt Nam.

Lập trường đấu tranh uyển chuyển nói trên đã giúp cho các đảng phái, tổ chức đấu tranh của người Việt ở trong và ngoài nước có thể khai thác những thay đổi của tình hình, mở ra nhiều hình thái đấu tranh và đưa đến sự hình thành nhiều hình thức kết hợp giữa nhiều đoàn thể như Liên Minh Các Phong Trào Đấu Tranh Giành Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam (1990), Mặt Trận Quốc Dân (1992) hay Hội Nghị Liên Kết Người Việt Tự Do (1995) sau này.

GIF - 23.7 kb

Thời kỳ thứ hai từ tháng 9-1990 đến năm cuối năm 1991. Đây là thời kỳ các Phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ cho Việt Nam đã phối hợp với các đảng phái, Cộng đồng mở những chiến dịch chuyển tin tức về sự tan rã của các chế độ Cộng sản tại Đông Âu và nhất là sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết về Việt Nam, đồng thời mở các cuộc vận động chính giới các quốc gia lên tiếng ủng hộ những tiếng nói đối kháng của một số văn nghệ sĩ tại Việt Nam. Đa số tài liệu được các Phong trào và nhiều đoàn thể đấu tranh thực hiện dưới ba dạng: 1/Những tin tức đấu tranh được thu ngắn, gửi dưới dạng thư thăm hỏi đồng bào trong nước. 2/Những Video Tape ghi lại các tin tức biểu tình của những phong trào quần chúng tại Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, dưới hình thức Video ca nhạc; 3/Những hình ảnh và tài liệu sách báo để giúp cho đồng bào, cán binh Cộng sản Việt Nam có cơ hội hiểu rõ tình hình đấu tranh tại các quốc gia Đông Âu và Liên Xô cũ. Những tài liệu này đã được các Phong trào và các tổ chức chia nhau gửi đến từng địa chỉ của đồng bào từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Trong giai đoạn đầu, việc chuyển tin tức mà các Phong Trào thường gọi vào lúc đó là ’Công Tác Chuyển Lửa Về Quê Hương’ đã đạt được kết quả khá cao, nhiều đồng bào đã nhận được và không chịu báo cho công an biết; nhưng càng ngày số lượng chuyển tin càng nhiều và dồn dập, khiến cho công an Việt cộng bắt đầu để ý theo dõi.

Trong những tài liệu cảnh giác về diễn biến hòa bình, Cộng sản Việt Nam đã báo động trong nội bộ về những tài liệu ‘phản động’ gửi từ hải ngoại vào trong nước với số lượng lớn. Cộng sản Việt Nam đã đe dọa mọi người là không được đọc, khi nhận được phải cáo ngay cho công an hay cơ quan trực thuộc. Chỉ trong hai năm 1989 và 1990, Cộng sản Việt Nam cho biết là họ đã chận và giữ lại khoảng trên 80,000 tài liệu đủ loại đuợc các phong trào gửi vào cho đồng bào tại Việt Nam. Con số mà Hà Nội khoe khoang giữ lại chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng trăm ngàn tài liệu đã được các Phong trào, cá nhân, đoàn thể, đảng phái, Cộng đồng chuyển về Việt Nam một cách kín đáo và bí mật. Song song với công tác phá vỡ sự bưng bít thông tin qua Chiến Dịch Chuyển Lửa về Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức của người Việt quốc gia cũng đã tích tham gia những buổi nói chuyện, trao đổi và phối hợp công tác đấu tranh chung với một số tổ chức, đoàn thể do những anh chị em du sinh và công nhân hợp tác tại Đức, Tiệp Khắc và Liên bang Nga thành lập. Nhờ nỗ lực tiếp cận này mà những ngộ nhận, thành kiến giữa hai môi truờng Đông và Tây đã được nêu ra để mọi người có điều kiện giải tỏa hầu có thể hợp tác trong lâu dài.

JPEG - 14.3 kb

Thời kỳ thứ ba từ đầu năm 1992 đến năm 1993. Đây là thời kỳ Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn và lúng túng khi họ bị chính giới quốc tế và cả cộng đồng người Việt hải ngoại đả kích về những đàn áp chính trị tại Việt Nam. Chiến dịch đấu tranh cho các tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm đã được các phong trào, đảng phái cùng đồng loạt phát động với sự hưởng ứng mạnh mẽ của các đoàn thể trong Cộng đồng. Danh sách tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm đã được công tố từng đợt, tạo thành một hồ sơ với đầy đủ chi tiết được công bố trước công luận, khiến cho Cộng sản Việt Nam không thể chối cãi là tại Việt Nam không có tù nhân chính trị. Chiến dịch đấu tranh cho tù nhân chính trị còn giúp cho các nhà đối kháng tại quốc nội mạnh dạn hơn trong những lên tiếng đòi dân chủ đa nguyên và nhất là phê phán tình trạng cai trị kiểu gia trưởng của guồng máy đảng. Song song, các phong trào và nhiều đoàn thể trong cộng đồng đã phối hợp tổ chức hàng loạt các cuộc nói chuyện về ‘tình hình tù nhân chính trị tại Việt Nam’ thu hút nhiều sự tham gia rộng rãi của đồng bào. Chính nhờ chiến dịch đấu tranh này mà Hải Ngoại đã tạo được nhịp cầu cảm thông với các nhà đối kháng ở trong nước, đồng thời biến nó thành một vũ khí đấu tranh thường trực để tấn công đảng Cộng sản Việt Nam mỗi khi Hà Nội đưa những phái đoàn vận động ngoại giao, kinh tế và thương mại đến các quốc gia tự do như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Châu và các nước trong vùng Trung và Tây Âu.

*

Trong ba năm, từ năm 1989 khi biến cố Đông Âu bắt đầu bộc phát từ Ba Lan đến cuối năm 1991 với sự sụp đổ toàn diện của khối Cộng sản Quốc tế tại Liên Xô cũ, đảng Cộng sản Việt Nam bỗng chốc rơi vào hoàn cảnh mồ côi giữa chợ. Thật vậy, mọi hành xử của đảng Cộng sản Việt Nam trước đây đều được đế quốc Liên Xô chỉ đạo và yểm trợ một cách toàn diện; khi Liên Xô gặp khủng hoảng và toàn thể các nước trong khối Cộng sản bị rúng động vì cơn bão dân chủ thổi đến, Hà Nội đã phản ứng theo lối phản xạ hơn là tính toán, cân nhắc như trước đây. Chính vì vậy mà trong một loạt những diễn tiến của tình hình như đề cập bên trên, đảng Cộng sản Việt Nam đã không có một tầm nhìn chiến lược, mà chỉ chú tâm vào việc giữ đảng bằng mọi giá, không chú ý gì đến hạnh phúc và sự thịnh vượng của toàn dân. Hậu quả của tầm suy nghĩ như vậy đã biểu hiệu rõ rệt trong 20 năm (1986- 2006) mà Hà Nội áp dụng đường lối mở cửa, đổi mới. Đó là một Việt Nam vẫn chưa chấm dứt mối lo cho miếng ăn hàng ngày thì làm sao dân có đủ điều kiện chăm lo công nghiệp hóa hầu theo kịp các nước trong vùng?


****

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Quang cảnh buổi Hội thảo UPR do Việt Tân cùng các Tổ chức ACAT, Freedom House, Destination Justice, Media Defence, RSF, Hội Anh Em Dân Chủ và COSUNAM phối hợp tổ chức lúc 3 giờ chiều ngày 6/5/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ. Ảnh: Việt Tân

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 12 – 19/5/2024

Nội dung:
– Vận động quốc tế và biểu tình trước phiên Kiểm điểm Định kỳ UPR tại Geneva, Thụy Sĩ;
– Vận động bảo vệ quyền lợi của người H’Mông tại Bộ Ngoại giao Hòa Lan;
– Cựu Tù nhân Lương tâm Châu Văn Khảm gặp gỡ đồng hương tại Quận Cam, California.

Quang cảnh buổi Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội, Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ tổ chức hôm 6/5/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ - một ngày trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tình hình nhân quyền VN (UPR Vietnam, 4th Cycle)

Những dấu ấn từ Hội thảo UPR ở Geneva, Thụy Sĩ

Sébastien Desfayes, luật sư, dân biểu và chủ tịch COSUNAM, nhắc lại rằng năm 2019, Việt Nam đã chấp nhận 83% các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế. Nhưng 5 năm sau (2024), tình hình đối với những người bảo vệ nhân quyền ngày càng xấu đi. LS Desfayes không tin rằng Hà Nội sẽ tự động thay đổi “trở nên tốt hơn” sau UPR 2024. Mà nhà nước Việt Nam sẽ chỉ giảm bớt đàn áp khi bị áp lực.

“Tình hình nhân quyền sẽ không được cải thiện từ phía nhà nước Việt Nam, mà sẽ phải nhờ vào sự tranh đấu của chúng ta, và điều chắc chắn là chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam,” Luật sư Sébastien Desfayes kết luận.

Sư Minh Tuệ. Ảnh: Internet

Sư Minh Tuệ và pháp hành dưới góc nhìn Phật Giáo

Đến hôm nay, sư Minh Tuệ được rất nhiều người biết tới (tôi không thích dùng từ “nổi tiếng” đối với một bậc tu hành) và có sức lan toả rộng khắp, vượt ra cả biên giới quốc gia. Và câu chuyện về sư Minh Tuệ trở nên nóng hơn bao giờ hết, khắp mạng xã hội tràn ngập những video và hình ảnh về ông. Theo đó là rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Kính phục, ngưỡng mộ… có; chê bai, miệt thị … có. Muôn nẻo trần ai!

Bà Uzra Zeya, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền. Ảnh: RFA

Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ: Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm trọng các quyền tự do cơ bản

Bà Uzra Zeya – Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền nói sẽ tiếp tục tạo sức ép để chính quyền Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản, trả tự do cho hơn 180 tù nhân chính trị và chấm dứt tình trạng đàn áp xuyên biên giới.

Bà Uzra Zeya còn bày tỏ mối quan ngại sâu sắc khi Hà Nội tiếp tục áp đặt những hạn chế nghiêm trọng đối với tất cả các quyền tự do cơ bản, bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp ôn hòa, tự do tôn giáo… hay điều kiện giam giữ hà khắc đối với các tù nhân chính trị bị kết án một cách bất công.