Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh dâng Hoàng Sa cho Mao Trạch Đông

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Quốc hội Trung Cộng ra tuyên bố bốn điểm về chủ quyền của các đảo trên biển, điểm thứ nhất và thứ tư có liên hệ trực tiếp đến lãnh thổ Việt Nam gồm Tây Sa tức Hoàng Sa và Nam Sa tức Trường Sa.

Tuyên bố của Trung Cộng ghi rõ: “Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.”

Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng CSVN, gởi cho Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai một công hàm “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.”

Ngày 22 tháng 9 năm 1958, công hàm đã được đăng trên báo Nhân dân để toàn đảng, toàn dân và toàn thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng.

Phạm Văn Đồng đặt bút ký vì y được giao chức vụ Thủ tướng nhưng không phải là người quyết định dâng đảo. Đây không phải là chuyện đối nội mà là đối ngoại và có ảnh hưởng đến suốt dòng lịch sử mai sau.

Sau đại hội đảng lần II và hàng loạt thay đổi nhân sự vào năm 1956, Bộ Chính Trị đảng Lao Động Việt Nam (CSVN) vào ngày 14 tháng 9, 1958 gồm: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan, Phạm Hùng.

Năm 1958, Lê Duẩn mới từ Nam ra Bắc, Trường Chinh vừa bị khiển trách sau vụ Cải Cách Ruộng Đất và bị hạ bệ, Hồ Chí Minh là người trực tiếp điều hành Bộ Chính Trị CSVN và đương nhiên chịu trách nhiệm lãnh đạo cả nhà nước CSVN. Văn bản dâng đảo do Phạm Văn Đồng ký phải được Hồ Chí Minh thông qua và chấp thuận.

Thời điểm năm 1958 là thời điểm căng thẳng giữa Trung Cộng và Mỹ về vấn đề Đài Loan. Hồ Chí Minh vẫn có thể làm vừa lòng Mao mà không phải dâng đảo nếu công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ nhằm ủng hộ quan điểm Mao về vấn đề Đài Loan thôi.

Nhưng không. Thay vì gạch đít, đóng khung, tô màu hai chữ Đài Loan trong văn bản, Hồ Chí Minh dâng cả Biển Đông cho Mao trong chỉ một câu: “Ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.” Phân tích “công hàm Phạm Văn Đồng” không phải để thừa nhận nó nhưng để thế hệ trẻ Việt Nam thấy được âm mưu CS hóa Việt Nam được che giấu trong chiêu bài “giải phóng dân tộc”. “Công hàm Phạm Văn Đồng” về lý luận và tư tưởng còn phản ảnh ý thức vong bản của những kẻ phản quốc đang được thần tượng hóa tại Việt Nam.

Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã và đang giúp soi sáng những vùng lịch sử trước đây bị che đậy, bưng bít, và qua đó, các thế hệ trẻ Việt Nam có cơ hội học, đọc và hiểu rõ những ai thật sự đã “rước voi giày mả tổ” Việt Nam.

Trần Trung Đạo

Nguồn: FB Trần Trung Đạo

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Giới thạo tin cho rằng “lò” có thể sẽ đốt cả bà Trương Thị Mai (phải), thường trực Ban Bí thư kiêm trưởng Ban Tổ chức Trung ương đảng. Ảnh minh họa: Hoang Dinh Nam/ AFP via Getty Images

Vỡ bình, đất nước sẽ ra sao?

Công cuộc đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng cho đến nay, chẳng những đã thất bại, đã không trị được cội rễ của tham nhũng mà còn vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông ta. Rải rác đã có lời đồn đoán phen này không chừng chủ lò lại biến thành củi vì “trách nhiệm chính trị của người đứng đầu” khi hàng loạt đảng viên cao cấp – đảm nhiệm từ chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, phó thủ tướng, bộ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh đến tướng tá quân đội và công an – bị cách chức, bị tống giam đến mức “đã đủ nhân sự lập một chính phủ trong tù!”

Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tình trạng của người bảo vệ nhân quyền. Ảnh: Srdefenders

Báo cáo viên đặc biệt LHQ: Hà Nội cần chấm dứt đàn áp nhân quyền một cách có hệ thống

Hà Nội cần chấm dứt việc đàn áp một cách có hệ thống và sử dụng các điều luật bị cho “nguỵ tạo” để bắt giam các nhà hoạt đông bảo vệ nhân quyền.

Đây là khuyến nghị của một số các tổ chức nhân quyền quốc tế cùng với quan chức Liên Hiệp Quốc và dân biểu Thuỵ Sỹ lên tiếng nhân dịp Việt Nam tham dự phiên Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) vào ngày 7/5/2024.

UPR 2024 – 5 năm nhìn lại tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Universal Periodic Review, được gọi tắt là UPR, tức Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát là một cơ chế của Hội đồng Nhân quyền LHQ (UNHCR), được thiết lập từ năm 2006, nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Để đạt được mục đích này, Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát thực hiện việc kiểm tra, đánh giá hồ sơ nhân quyền của mỗi quốc gia, và đưa ra khuyến nghị cho các vi phạm nhân quyền ở bất cứ nơi nào chúng xảy ra.

Vào ngày 7/5/2024 tới đây, tình hình nhân quyền Việt Nam được kiểm điểm trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát, chu kỳ thứ tư.