Tại sao hầu hết các quốc gia Ấn Độ-Thái Bình Dương rón rén chung quanh Nga

Thủ Tướng Ấn Độ Narendra Modi gặp Tổng Thống Nga Vladimir Putin tại một diễn đàn kinh tế ở Saint Petersburg, Nga, vào ngày 1/6/2017. Ảnh: Dmitry Lovetsky/ AFP via Getty Images
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Phạm Nhật Bình lược dịch

Nhà phân tích quốc phòng Derek Grossman thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược RAND Corp., vừa có một bài viết “Why Most of the Indo-Pacific Tiptoes Around Russia” đăng trên tạp chí Foreign Policy vào ngày 7 tháng Tư, 2022 vừa qua. Sau đây là phần lược dịch của Phạm Nhật Bình.

Kể từ khi bắt đầu cuộc chiến ngày càng tàn bạo của Nga ở Ukraine, phương Tây đã gia tăng sức ép lên phần còn lại của thế giới để lên án sự hiếu chiến của Moscow và tham gia các biện pháp trừng phạt chống lại Nga và chế độ của nước này. Tuy nhiên, ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn, thông điệp của phương Tây không được hưởng ứng mấy. Chỉ có 6 đồng minh và đối tác trung thành của Hoa Kỳ ở đó là Úc, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan, đã tham gia các lệnh trừng phạt của phương Tây hoặc tự khởi xướng các lệnh trừng phạt của chính họ.

Cho đến nay, phần còn lại của khu vực này đã từ chối gia nhập với phương Tây. Điều đó phần lớn là do hầu hết các quốc gia này đang đối diện với nhiều khó khăn để định vị mình trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Và sự xuất hiện của một cuộc xung đột thêm giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Nga làm gia tăng nguy cơ liên kết với phương Tây, đặc biệt là khi Moscow và Bắc Kinh đang hợp tác chặt chẽ với nhau.

Tất nhiên, đáng chú ý nhất trong số những nước bỏ phiếu trắng trong khu vực là hai ứng cử viên nặng ký: Ấn Độ và Trung Quốc. Từ góc độ chiến lược tổng quát, họ đang tận dụng cuộc khủng hoảng để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ trật tự quốc tế đơn cực sang đa cực nhằm làm giảm khả năng thống trị thế giới của phương Tây.

Mặc dù xích lại gần Washington trong những năm gần đây, New Delhi đặc biệt từ chối lên án Moscow, phần lớn là vì Ấn Độ tiếp tục phụ thuộc nhiều vào vũ khí của Nga để duy trì sức mạnh quân đội của mình. Đây là một mối quan hệ thân thiết có từ thời Chiến Tranh Lạnh và là một mối quan hệ mà Ấn Độ không muốn mạo hiểm.

Ngay trước khi Nga xâm lược [Ukraine], Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã hứa với Tổng Thống Nga Vladimir Putin tình hữu nghị “không có giới hạn,” thể hiện tầm nhìn chung của hai nhà lãnh đạo về việc đẩy lùi những gì họ cho là sự xâm lấn của phương Tây. Cả Ấn Độ và Trung Quốc đều khai thác cuộc khủng hoảng để mua dầu và các mặt hàng khác của Nga với giá chiết khấu cao khi một số nước phương Tây đang cắt giảm nhập khẩu – mặc dầu nguồn cung của Nga vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong nhập khẩu của họ so với hầu hết các nước châu Âu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho những giao dịch này và giúp Nga giảm bớt sự phụ thuộc vào đô-la Mỹ, Ấn Độ thậm chí còn được cho là đang nghĩ ra một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ từ đồng ru-pi [Rupee – INR] sang đồng rúp.

Do đó, vị trí của Ấn Độ và Trung Quốc không có gì đáng ngạc nhiên. Điều đáng chú ý hơn là rất ít quốc gia khác trong khu vực đã tham gia nỗ lực trừng phạt Nga. Để chắc chắn, nhiều chính phủ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã bày tỏ lo ngại của họ tại Liên Hiệp Quốc, nơi Hội Đồng Bảo An và Đại Hội Đồng đã bỏ phiếu về chín nghị quyết liên quan đến Nga và Ukraine kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Nhưng tất cả những nghị quyết này đều là những nghị quyết không ràng buộc, không đòi hỏi gì nơi các nước ủng hộ và do đó vẫn tương đối dễ dàng và ít rủi ro. Ngay cả khi đó, các quốc gia chủ chốt bao gồm Việt Nam – một đối tác mới nổi của Hoa Kỳ – đã liên tục bỏ phiếu trắng liên quan đến Nga.

Một lý do khiến nhiều quốc gia trong khu vực cố gắng hết sức để hạ mình là lợi ích của việc đứng về phía phương Tây đơn giản là không lớn hơn lợi ích an ninh quốc gia của mối quan hệ song phương với Nga hiện nay. Không có nghĩa là chỉ Ấn Độ mới được hưởng lợi từ vai trò của Nga với tư cách là nhà cung cấp vũ khí, năng lượng và hàng hóa chính cho khu vực. Tương tự, Việt Nam phụ thuộc vào vũ khí của Nga để hiện đại hóa quân đội và sẽ không muốn có nguy cơ mất quyền tiếp cận với nhà cung cấp chính của mình. Indonesia cũng có thể quyết định mua dầu của Nga với giá chiết khấu.

Quan trọng hơn nữa, đối với hầu hết các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực, sự bế tắc hiện tại giữa Nga và phương Tây có thể làm trầm trọng thêm cuộc cạnh tranh vốn đã rất gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc trên khắp Ấn Độ-Thái Bình Dương. Với việc Matxcơva và Bắc Kinh phối hợp công khai và chặt chẽ với phe đối lập với phương Tây, các nước nhỏ hơn có lẽ có xu hướng đứng ngoài cuộc chiến vì sợ bị cả hai quốc gia này đáp trả. Từ quan điểm của các nước nhỏ hơn, cân bằng các cường quốc và tránh khỏi xung đột của họ là một cơ chế sống còn — do đó họ vẫn đứng bên lề đối với [cuộc chiến] Ukraine. Chỉ khi cuộc chiến của Nga ở Ukraine gây ra một cuộc xung đột lớn trên toàn cầu thì họ mới cân nhắc công khai đứng về phía nào. Nhưng ngay cả khi đó, nhiều nước có thể sẽ cố gắng và giữ thái độ trung lập để tránh đứng về phía sai của bên chiến thắng.

Ở Đông Nam Á, các quốc gia đứng ngoài không chỉ bao gồm Brunei, Indonesia, Malaysia và Việt Nam mà còn có hai đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ: Philippines và Thái Lan. Ngay cả khi các quốc gia phương Tây cố gắng gạt Nga ra khỏi các diễn đàn quốc tế khác nhau, Indonesia đang có kế hoạch cho phép Putin tham dự hội nghị thượng đỉnh G-20 mà nước này tổ chức ở Bali vào cuối năm 2022, trước sự phản đối của phương Tây. Câu chuyện tương tự cũng đúng ở Nam Á, nơi không một quốc gia nào ủng hộ các biện pháp trừng phạt.

Một số quốc đảo Thái Bình Dương cũng đã lên án Moscow và đe dọa các biện pháp trừng phạt, nhưng không có quốc gia nào thực hiện. Quần đảo Marshall, chẳng hạn, đang xem xét lệnh cấm du thuyền thuộc sở hữu của Nga và các tàu khác đi vào vùng biển của nước này. Với một trong những cơ quan ghi danh các tàu lớn nhất cho vận chuyển tư nhân và thương mại trên toàn thế giới, quốc gia này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế vận chuyển do Nga sở hữu.

Liên Bang Micronesia – một lãnh thổ tin cậy trước đây của Hoa Kỳ thường gắn bó với Washington, đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Nga, đưa nước này vào danh sách “các quốc gia không thân thiện” của Matxcơva, nhưng Liên Bang Micronesia không ủng hộ các lệnh trừng phạt. Quần đảo Solomon lên án hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine nhưng cũng kiềm chế không có thêm hành động nào. Thủ tướng Fiji, người chủ trì Diễn Đàn các Quốc Đảo Thái Bình Dương năm nay, đã từ chối lên án Nga nhân danh tất cả các quốc đảo Thái Bình Dương.

Một động lực khác trong chính sách đối ngoại liên quan tới Nga ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là ý thức hệ. Lào và Việt Nam đã bỏ phiếu trắng trong các cuộc bỏ phiếu gần đây liên quan đến Nga tại Liên Hiệp Quốc, có lẽ một phần vì họ có chung hệ thống chính quyền độc tài như Nga và sự thiếu tin tưởng đối với phương Tây dân chủ. Myanmar, quốc gia bị quân đội cai trị từ năm ngoái, ủng hộ Nga hoàn toàn. Campuchia độc đoán, nhưng đáng ngạc nhiên, đã bỏ phiếu với phương Tây để lên án Nga tại Liên Hiệp Quốc, có lẽ vì nước này giữ chức chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á  ASEAN năm nay và muốn thể hiện như một nhà quản lý có trách nhiệm. Triều Tiên có thể đoán trước được mối quan hệ của họ với Putin và đã khai thác sự phân tâm của chiến tranh để chuẩn bị cho một vụ thử tên lửa đạn đạo tầm xa mới, lần đầu tiên kể từ năm 2017.

Cuối cùng, một số quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có lý do cụ thể cho chính sách Nga của họ. Pakistan, quốc gia lo ngại sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Ấn Độ, thì chỉ mới bắt đầu quan hệ đối tác với Moscow và không muốn phá hỏng đà phát triển tốt đẹp đó. Thủ Tướng Pakistan Imran Khan là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm Putin ở Moscow sau khi Nga phát động cuộc chiến. Và thay vì tránh sự khó xử đó bằng cách hoãn chuyến đi, Khan đã xuất hiện, nhấn mạnh ý định của ông về việc củng cố mối quan hệ. Mông Cổ, trong khi nghiêng về phương Tây theo nhiều cách, cũng bỏ phiếu trắng tại Liên Hiệp Quốc về các vấn đề liên quan đến Nga, đặc biệt là vì nước này giáp biên giới với Nga và phụ thuộc nhiều vào Nga về mặt chính trị và kinh tế.

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước báo chí sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. Ảnh: AP - Luong Thai Linh

Báo chí Việt Nam chính thức thông báo tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ trần

Còn ông Michael Tatarski, chủ trang Web thời sự Vietnam Weekly bằng tiếng Anh, đăng độc lập ở Sài Gòn, cho rằng theo quan sát của ông về cuộc chuyển giao quyền lực sau khi ông Trọng tạ thế, câu hỏi lớn hơn cả là cách Việt Nam đối xử với xã hội dân sự, việc kiểm soát Internet, các thảo luận mở, và việc kiểm duyệt văn hóa.