Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc làm đảo lộn quy luật hải chiến

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

James Kraska

10 tháng 8, 2015

Việc sử dụng đội ngũ tàu đánh cá làm lực lượng dân quân biển có hệ lụy pháp luật sâu đậm.

Trung Quốc có đội ngũ tàu đánh cá được tổ chức thành một lực lượng dân quân biển với vai trò bán quân sự trong thời bình cũng như thời chiến. Lực lượng dân quân này là một lực lượng không chính quy của hải quân Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc và nó tạo ra nhiều thách đố về chính trị, luật pháp, tác chiến cho đối thủ. Tầm cỡ to lớn của mạng lưới dân quân biển gây phức tạp trên chiến trường, giảm sút tiến trình lấy quyết định của đối thủ và đặt đối phương vào thế khó xử về chính trị. Tất cả điều này khiến cho đối phương phải cẩn trọng khi đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc hải chiến hoặc một cơn khủng hoảng hàng hải. Hệ lụy về mặt pháp luật cũng không kém phần sâu đậm.

Lực lượng dân quân biển xóa đi sự phân biệt lâu đời giữa tàu chiến và tàu dân sự trong luật hải chiến. Luật hải chiến bảo vệ các tàu đánh cá ven biển không bị bắt giữ hay bị tấn công trong thời chiến. Mặc dầu tàu chiến có thể giao chiến với những tàu đánh cá dân sự nào đang giúp cho đối phương, tuy nhiên rất là khó để phân biệt đâu là tàu đánh cá dân sự chân chính và đâu là những tàu đánh cá thuộc lực lượng dân quân biển của Trung Quốc. Dầu lực lượng dân quân biển có đóng vai trò tác chiến quan trọng gì hay không đi nữa, sự hiện diện của lực lượng này trên chiến trường tạo ra thế khó xử về tác chiến và pháp luật cho đối phương.

Việc sử dụng tàu đánh cá trong thời chiến không phải là điều gì mới mẻ. Trong cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha năm 1898, hải quân Mỹ bắt giữ hai tàu đánh cá của Cuba, nhưng sau đó Tòa Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra phán quyết năm 1900 phải thả hai chiếc tàu này. Tòa cho rằng, “Theo truyền thống lâu đời của các quốc gia văn minh và dần dà trở thành luật lệ quốc tế thì các tàu đánh cá ven biển đeo đuổi nghề đánh cá của họ được nhìn nhận là không bị bắt giữ trong thời chiến, từ hàng hóa cho đến thủy thủ đoàn.”

Trong cuộc chiến Việt Nam, Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ cũng bị điêu đứng vì các tàu đánh cá được hòa nhập vào lực lượng tác chiến của đối phương. Vào tháng Chín năm 1964, Bắc Việt dùng tàu đánh cá để báo cáo vị trí của các chiến hạm Hoa Kỳ trong Vịnh Bắc Việt. Theo một tài liệu đã giải mật của cơ quan an ninh quốc gia (National Security Agency) cho thấy có một thông tin gửi đi từ một chiếc tàu không rõ danh tánh đến trạm kiểm soát trên đất liền cùng lúc khi chiến hạm USS Maddox đi ngang hai tàu đánh cá cách đó khoảng hai ngàn mét. Sau đó tàu Maddox bị ba chiếc tàu vũ trang của Bắc Việt gây hấn. Trong suốt cuộc chiến Việt Nam các tàu đánh cung cấp tiếp tế cho quân đội Bắc Việt dọc bờ biển. Các tàu này là một thách đố liên tục cho lực lượng hải quân Hoa Kỳ.

Dùng tàu đánh cá làm lực lượng phụ cho hải quân vi phạm vào nguyên tắc phân biệt – một nguyên lý cốt yếu của luật nhân đạo quốc tế quy định rằng thường dân và các đối tượng dân sự được bảo vệ không bị tấn công. Mục tiêu của nguyên tắc phân biệt là để bảo vệ thường dân và làm giảm tác động của chiến tranh lên họ. Thế nhưng lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đã làm mờ đi lằn ranh phân biệt giữa tàu đánh cá và tàu mang chức năng hải quân.

Với 200 ngàn tàu bè, Trung Quốc có một đội ngũ tàu đánh cá lớn nhất trên thế giới và ngành thương mãi này có 14 triệu nhân viên chiếm 25% tổng số trên thế giới. Doanh nghiệp khổng lộ này hoạt động liên kết cùng với hải quân để xúc tiến mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh trong vùng biển Nam Hải và Đông Hải. Lực lượng dân quân này từng can dự vào cuộc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, cũng như gây cản trở hải hành của các tàu thăm dò của Hoa Kỳ. Lực lượng này đồng thời hỗ trợ hậu cần cho các chiến hạm Trung Quốc. Thí dụ như vào tháng Năm 2008, tàu dân quân tiếp vận đạn dược và nhiên liệu cho tàu chiến gần tỉnh Chiết Giang.

Các ngư phủ được chỉ định vào các hợp tác xã hoặc các công ty dân sự và được huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị nhằm để huy động và thúc đẩy các quyền lợi của Trung Quốc trên mặt biển. Các tàu đánh cá của lực lượng dân quân được trang bị hệ thống điện tử cao cấp bao gồm cả hệ thống truyền tin và ra đa nhằm bổ sung cho hải quân TQ và gia tăng tương kết với các cơ quan khác như Cảnh Sát Biển TQ. Nhiều chiếc tàu còn được trang bị hệ thống hải hành bằng vệ tinh và có thể theo dõi và báo cáo vị trí các tàu khác, và làm nhiệm vụ thâu thập tình báo hàng hải.

Với nhiệm vụ hỗ trợ cho hải quân TQ của lực lượng dân quân biển có thể biến các tàu đánh cá thành những mục tiêu hợp lệ khi có xung đột vũ trang và đưa đến những hệ quả bi thảm cho các ngư phủ chân chính trong vùng. Đây là một thí dụ điển hình của cái gọi là “chiến tranh pháp lý” của Trung Quốc với chủ tâm bóp méo các ý niệm pháp lý để chống chọi lại đối phương. Không như Phi Luật Tân dùng hệ thống luật pháp quốc tế để kiện Trung Quốc, lực lượng dân quân biển khai thác lằn ranh của luật lệ và do đó sẽ đẩy các ngư dân vào thế rủi ro.

Quy luật phân biệt đã thành thông lệ này sẽ tạo áp suất lên Hoa Kỳ và đồng minh trong cách đối xử với các tàu đánh cá Trung Quốc. Phân biệt giữa tàu đánh cá chân chính và tàu dân quân gần như không thể được vì số lượng tàu quá nhiều, mặt biển bao la, và Hoa Kỳ thiếu hệ thống nhận dạng để phân biệt bạn thù. Nếu có chiếc tàu nào của dân quân bị tiêu hủy trong hải chiến sẽ bị Trung Quốc dùng đó để tuyên truyền chống lại đối phương. Ngay cả những phản ứng nhẹ như phá sóng, làm nhiễu thông tin cũng sẽ được khai dụng bởi hệ thống tuyên truyền của Trung Quốc để thâu phục sự cảm thông của các nước trong vùng.

Trong vai trò tăng lực, lực lượng dân quân biển là một thách đố tác chiến đòi hỏi Hoa Kỳ và đồng minh phải tăng cường hệ thống lực lượng, bao gồm từ tàu chiến, tàu ngầm và đặc biệt là các loại máy bay không người lái (drones) và các loại tàu ngầm không người lái để kiềm chế mối đe dọa. Khi mà Bắc Kinh ngày càng hòa nhập lực lượng dân quân biển vào hải quân thì lằn ranh giữa tàu đánh cá dân sự và tàu chiến càng mờ nhạt dần.

James Kraska là giáo sư và giám đốc nghiên cứu của Trung Tâm Stockton Nghiên Cứu Về Luật Quốc Tế, Đại Học Hải Chiến Hoa Kỳ, và tác giả của Quyền Lực Hàng Hải và Luật Biển và Luật An Ninh Hàng Hải Quốc Tế

Nguồn: The Diplomat

Trần Thi lược dịch

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước báo chí sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. Ảnh: AP - Luong Thai Linh

Báo chí Việt Nam chính thức thông báo tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ trần

Còn ông Michael Tatarski, chủ trang Web thời sự Vietnam Weekly bằng tiếng Anh, đăng độc lập ở Sài Gòn, cho rằng theo quan sát của ông về cuộc chuyển giao quyền lực sau khi ông Trọng tạ thế, câu hỏi lớn hơn cả là cách Việt Nam đối xử với xã hội dân sự, việc kiểm soát Internet, các thảo luận mở, và việc kiểm duyệt văn hóa.