Sự phá sản của Vinashin và trách nhiệm của Nguyễn Tấn Dũng

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Ngày 3 tháng 8 năm 2010, Bộ công an đã chính thức bắt giữ Phạm Thanh Bình, 57 tuổi, cựu chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp Tàu Thủy (Vinashin) về tội “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng”. Trước đó một tháng, ngày 5 tháng 7, Ủy ban kiểm tra trung ương đảng đã ra thông cáo tố cáo rằng Phạm Thanh Bình đã làm cho Vinashin lỗ 4 tỷ Mỹ Kim. Một tuần sau đó, Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định đình chỉ chức chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin của Phạm Thanh Bình và cử Nguyễn Hồng Trường, Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải kiêm nhiệm chức chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin.

Qua một loạt những diễn tiến nói trên cho thấy là việc bắt giữ và truy tố Phạm Thanh Bình không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên mà đã được sắp đặt từ trước, nhất là tung ra vào lúc Hà Nội đang chuẩn bị danh sách ứng viên Trung ương đảng cho đại hội đảng lần thứ 11 sẽ diễn ra vào trung tuần tháng 1 năm 2011. Nhiều dư luận cho rằng sự phá sản Vinashin là nhằm tấn công vào trách nhiệm và uy tín của Nguyễn Tấn Dũng?

Vinashin là một trong một số rất ít tập đoàn công nghiệp lớn mà Hà Nội đã bắt chước Trung Quốc cho lập ra từ năm 1996 với mục tiêu làm đầu tàu xây dựng nền công nghiệp Việt Nam. Khởi động từ số vốn non 100 triệu đồng Việt Nam với công nghiệp lạc hậu, Vinashin đã được thổi lên như tập đoàn có khả năng xây dựng nền công nghiệp đóng tàu sánh vai cùng với thế giới. Đặc biệt là từ năm 2006, khi lên làm Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng đã dành rất nhiều vốn ưu đãi cho Tổng công ty Vinashin để phát triển ngành đóng tàu hầu có thể cạnh tranh với Nhật và Nam Hàn. Nguyễn Tấn Dũng còn vận động Trung ương đảng khóa X trong kỳ họp cuối năm 2007 đưa ra một nghị quyết coi ngành đóng tàu là trọng điểm, là định hướng chiến lược của đảng trong quá trình công nghiệp hóa. Nghị quyết này còn coi Vinashin là một tập đoàn kinh tế chiến lược của Cộng sản Việt Nam để phát triển kinh tế biển và thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc phòng.

Để thực hiện cái gọi là “nhiệm vụ chiến lược” này, Nguyễn Tấn Dũng đã giúp cho Vinashin vay vốn thông qua Bộ giao thông vận tải. Ngoài nguồn vốn trái phiếu phát hành ra quốc tế là 750 triệu Mỹ kim dành riêng cho Vinashin, Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị cho Bộ giao thông vận tải đứng ra bảo trợ cho Vinashin phát hành 3 tỷ Mỹ kim trái phiếu nội địa. Vốn trái phiếu nội địa mà chính quyền bảo trợ là loại trái phiếu phải giải ngân ngay, nhận đủ số tiền đồng thời cũng tính lãi luôn. Nói cách khác, Nguyễn Tấn Dũng đã dành mọi ưu đãi về nguồn vốn nhà nước cho Vinashin để phát triển cái gọi là ngành công nghiệp đóng tàu tại Việt Nam. Tính từ năm 2006 đến cuối năm 2009, Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ thị đưa cho Vinashin một nguồn vốn lên đến 4 tỷ Mỹ kim. Với tiền vốn ưu đãi này, Vinashin đã phát triển ào ạt, xây dựng hệ thống các nhà máy lắp ráp động cơ tàu thủy, nhà máy sơn tàu thủy, các khu công nghiệp đóng tàu tại khắp ba miền Nam, Trung và Bắc… với hơn 200 công ty con ra đời. Đó là chưa kể những loại dự án nhiệt điện, thủy điện, xi-măng, thép, bảo hiểm, các khu nghỉ mát, triển lãm… mà tập đoàn Vinashin góp vốn đầu tư.

Những dự án phát triển của Vinashin đã báo cáo lên Nguyễn Tấn Dũng, người chịu trách nhiệm cao nhất về sự vận hành của hệ thống tổng công ty mà Hà Nội đã xây dựng hiện nay như Tập đoàn Than và Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Hàng hải, Tập đoàn Vận tải, Tập đoàn Xây dựng v…v… Đương nhiên, Nguyễn Tấn Dũng sẽ dựa trên những báo cáo “hoành tráng” này mà báo cáo lại cho Ban bí thư để sau đó báo cáo cho Trung ương đảng. Chính vì dựa theo những báo cáo của Nguyễn Tấn Dũng, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 11 vào trung tuần tháng 10 năm 2009 vẫn tiếp tục coi ngành đóng tàu là ngành công nghiệp mũi nhọn và tuyên dương Vinashin là tập đoàn công nghiệp hàng đầu tại Việt Nam. Chỉ hai tháng sau khi được tuyên dương, những sự thật về “sự lớn mạnh” của Vinashin bắt đầu loan truyền trong nội bộ đảng. Vinashin đang đứng bên bờ vực phá sản vì không có dự án nào mang lại hiệu quả kinh tế.

Trước sự phá sản này, từ đầu năm 2010 người ta mới khám phá ra rằng, Vinashin không có khả năng đóng tàu thủy như báo chí đã thổi phồng qua các báo cáo của nhà nước. Sau 15 năm đầu tư cho ngành đóng tàu, Vinashin chỉ có thể làm công việc gia công. Tức là tất cả máy móc, các bộ phận trong ngoài của tàu đều nhập từ nước ngoài, Vinashin chỉ lắp ráp và sơn lại thành “con tàu”. Hà Nội gọi đó là “công nghiệp đóng tàu”. Theo kết luận sơ khởi của Ủy ban kiểm tra trung ương thì Vinashin đã mang nợ khoản 85 ngàn tỷ đồng tức 4 tỷ Mỹ kim. Trước sự phá sản của Vinashin, Nguyễn Tấn Dũng đã làm ba việc:

Thứ nhất là cách chức Phạm Thanh Bình khỏi trách vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin và truy tố ra tòa về tội “quản lý yếu kém làm thất thoát tiền nhà nước.

Thứ hai phân thây Vinashin làm nhiều mảnh và chuyển giao một số mảnh chưa giải quyết được cho Tập đoàn Dầu khí và Tập đoàn Hàng hải tiếp tục “nuôi” một thời gian trước khi khai tử.

Thứ ba là tiếp tục duy trì Vinashin để kiểm kê tài sản dưới cái gọi là “tái phối trí” cho qua đại hội đảng XI, để vừa giúp duy trì được chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa ngành đóng tàu cho Trung ương đảng, vừa tránh xáo trộn hàng ngũ đảng viên, vì Vinashin hiện có trên 20 ngàn công nhân viên đang làm việc.

Những biện pháp của Nguyễn Tấn Dũng chỉ là đẩy tất cả trách nhiệm cho Phạm Thanh Bình như con dê tế thần, và phân tán Vinashin thành nhiều mảnh, cho “tan biến” vào hệ thống Tập đoàn công nghiệp mà chính Nguyễn Tấn Dũng đã dựng ra. Cách làm của Nguyễn Tấn Dũng không chỉ nhằm chạy trốn trách nhiệm của y trước sự phá sản của Vinashin, mà còn bao che cho những tay đàn em dính líu đến Vinashin. Vinashin không thể nào điều hành bởi một mình Phạm Thanh Bình mà là một nhóm người trong Hội đồng quản trị do Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm. Do đó việc phá sản Vinashin không thể nào chỉ là trách nhiệm của riêng Phạm Thanh Bình. Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa đảng và các tổ chức kinh tế, xã hội thì Phạm Thanh Bình tuy là chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Vinashin, nhưng lại chịu hai tròng “áp bức”. Một là từ phía Nguyễn Tấn Dũng (qua Bộ giao thông vận tải về phương diện kinh doanh). Hai là Trương Tấn Sang (qua hệ thống Ban bí thư vì Phạm Thanh Bình là Bí thư Đảng bộ Vinashin).

Chắc chắn cả Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang đều biết rõ sự phá sản của Vinashin từ hơn một năm trước, không cần phải chờ những báo cáo của Phạm Thanh Bình để kết luận. Thế nhưng cả Dũng lẫn Sang đều ém nhẹm vụ phá sản này đối với Trung ương đảng cho đến cuối năm 2009. Câu hỏi đặt ra là tại sao vụ phá sản Vinashin lại xì ra trong dư luận đúng vào lúc các Đảng bộ cấp trung ương bầu cử bí thư và chuẩn bị nhân sự cho ứng viên trung ương đảng? Nhiều dư luận cho rằng, chính phe Trương Tấn Sang đã “bày vẽ” cho Ủy ban kiểm tra trung ương mà Nguyễn Văn Chi, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra lại là đàn em của Sang nằm trong ban bí thư, tiết lộ vụ vỡ nợ của Vinashin để quy trách nhiệm cho Nguyễn Tấn Dũng và những đàn em của Dũng. Trương Tấn Sang tin chắc là với vụ phá sản lên đến 4 tỷ Mỹ Kim của Vinashin, Trung ương đảng sẽ không thể im lặng mà phải lên tiếng về trách nhiệm chỉ đạo của Nguyễn Tấn Dũng đối với Vinashin. Chỉ cần sự phê phán này của Trung ương đảng, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị yếu thế, trong khi Sang có thêm triển vọng được bầu vào chức Tổng bí thư.

Tóm lại, vụ vỡ nợ của Tập đoàn Vinashin là hậu quả tất nhiên trong hệ thống cai trị độc tài, bưng bít và bao che của Hà Nội. Tuy nhiên, vụ vỡ nợ này chắc chắn phải có ít nhiều sự chỉ đạo ngầm của Trương Tấn Sang để phá hoại uy tín của Nguyễn Tấn Dũng, sau khi Dũng đã vung tay quá trán về chiến lược công nghiệp hóa ngành đóng tàu được xây dựng trên sự tham lam và ngu dốt của đàn em.

Trung Điền
Ngày 5/8/2010

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Quang cảnh buổi Hội thảo UPR do Việt Tân cùng các Tổ chức ACAT, Freedom House, Destination Justice, Media Defence, RSF, Hội Anh Em Dân Chủ và COSUNAM phối hợp tổ chức lúc 3 giờ chiều ngày 6/5/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ. Ảnh: Việt Tân

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 12 – 19/5/2024

Nội dung:
– Vận động quốc tế và biểu tình trước phiên Kiểm điểm Định kỳ UPR tại Geneva, Thụy Sĩ;
– Vận động bảo vệ quyền lợi của người H’Mông tại Bộ Ngoại giao Hòa Lan;
– Cựu Tù nhân Lương tâm Châu Văn Khảm gặp gỡ đồng hương tại Quận Cam, California.

Quang cảnh buổi Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội, Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ tổ chức hôm 6/5/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ - một ngày trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tình hình nhân quyền VN (UPR Vietnam, 4th Cycle)

Những dấu ấn từ Hội thảo UPR ở Geneva, Thụy Sĩ

Sébastien Desfayes, luật sư, dân biểu và chủ tịch COSUNAM, nhắc lại rằng năm 2019, Việt Nam đã chấp nhận 83% các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế. Nhưng 5 năm sau (2024), tình hình đối với những người bảo vệ nhân quyền ngày càng xấu đi. LS Desfayes không tin rằng Hà Nội sẽ tự động thay đổi “trở nên tốt hơn” sau UPR 2024. Mà nhà nước Việt Nam sẽ chỉ giảm bớt đàn áp khi bị áp lực.

“Tình hình nhân quyền sẽ không được cải thiện từ phía nhà nước Việt Nam, mà sẽ phải nhờ vào sự tranh đấu của chúng ta, và điều chắc chắn là chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam,” Luật sư Sébastien Desfayes kết luận.

Sư Minh Tuệ. Ảnh: Internet

Sư Minh Tuệ và pháp hành dưới góc nhìn Phật Giáo

Đến hôm nay, sư Minh Tuệ được rất nhiều người biết tới (tôi không thích dùng từ “nổi tiếng” đối với một bậc tu hành) và có sức lan toả rộng khắp, vượt ra cả biên giới quốc gia. Và câu chuyện về sư Minh Tuệ trở nên nóng hơn bao giờ hết, khắp mạng xã hội tràn ngập những video và hình ảnh về ông. Theo đó là rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Kính phục, ngưỡng mộ… có; chê bai, miệt thị … có. Muôn nẻo trần ai!

Bà Uzra Zeya, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền. Ảnh: RFA

Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ: Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm trọng các quyền tự do cơ bản

Bà Uzra Zeya – Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền nói sẽ tiếp tục tạo sức ép để chính quyền Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản, trả tự do cho hơn 180 tù nhân chính trị và chấm dứt tình trạng đàn áp xuyên biên giới.

Bà Uzra Zeya còn bày tỏ mối quan ngại sâu sắc khi Hà Nội tiếp tục áp đặt những hạn chế nghiêm trọng đối với tất cả các quyền tự do cơ bản, bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp ôn hòa, tự do tôn giáo… hay điều kiện giam giữ hà khắc đối với các tù nhân chính trị bị kết án một cách bất công.