Tại sao cần hủy Công hàm Phạm Văn Đồng?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Tham dự Hội nghị “Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt – Trung” cấp thứ trưởng lần thứ hai tại Bắc Kinh vào ngày 29 tháng 8 năm 2011, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ quốc phòng CSVN đã “thông báo chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tập trung đông người ở Việt Nam (biểu tình chống Trung Quốc) với tinh thần không để sự việc tái diễn” với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc.

Phát biểu của Nguyễn Chí Vịnh đã cho thấy là CSVN cố tình dẹp cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược xảy ra vào mỗi sáng chủ nhật từ tháng 6 đến nay, đặc biệt cuộc đàn áp ngày 21 tháng 8 như một món quà cho đàn anh trước khi đi Bắc Kinh dự Hội nghị nói trên. Điều này cũng cho thấy là CSVN đã thực hiện đúng lời hứa mà Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao CSVN đã xác định với Đối Bình Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc trong Hội nghị thảo luận về biển Đông hôm 25 tháng 6 cũng tại Bắc Kinh là “sẽ ngăn chận những luận điệu chống Trung Quốc” tại Việt Nam.

Thái độ khúm núm đối với Bắc Kinh của Nguyễn Chí Vịnh và Hồ Xuân Sơn cho chúng ta thấy là CSVN đã không dám phản kháng mạnh mẽ những hành vi xâm lấn của Bắc Kinh chỉ vì họ bị đuối lý khi phía Trung Quốc đem công hàm Phạm Văn Đồng ra biện giải về các hành vi xâm lược. Mặc dù phía CSVN chối rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hề xác định chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) mà chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc vào lúc đó; nhưng Trung Quốc đã “cố tình” coi công hàm Phạm Văn Đồng là mấu chốt để buộc CSVN phải tuân thủ, không tranh cãi.

Chính vì “khúc xương” công hàm Phạm Văn Đồng này mà CSVN đã phải thân hành đến Bắc Kinh thảo luận, đối thoại nhiều lần… nhưng rốt cuộc đều phải làm theo ý của Trung Quốc là “hợp tác phát triển, đấu tranh tất bại”. Do đó, mấu chốt của vấn đề Biển Đông chính là công hàm Phạm Văn Đồng. Ngày nào mà công hàm này không được giải quyết trên căn bản “đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết”, thì những vụ xâm lấn của Trung Quốc sẽ tiếp tục xảy ra và hòa bình sẽ không bao giờ có trên Biển Đông. Tại sao?

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Quốc đưa ra Bản tuyên bố khẳng định vùng biển Đông với hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) thuộc lãnh thổ của Trung Quốc. Hai hôm sau, ngày 6 tháng 9 năm 1958, tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng CSVN đã tường thuật chi tiết về bản tuyên bố này nêu rõ rằng “kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa”.

Tám ngày sau, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ là Thủ tướng đã gửi 1 công hàm cho Chu Ân Lai, tuyên bố chính thức rằng “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958… Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mối quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc trên mặt bể”.

Vào năm 1977, Phạm Văn Đồng cho biết lý do vì sao ký công hàm này: “Đó là thời chiến phải làm như vậy”. Đúng như cán bộ ngoại giao CSVN Lưu Văn Lợi và cựu Bộ trưởng ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm giải thích rằng khi đó, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) đã coi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc của họ mà là thuộc lãnh thổ của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) vì nước ta chia đôi ở vĩ tuyến 17 qua Hiệp định Genève năm 1954. Những lý luận “quái gở” của cán bộ CSVN nói trên đã giúp tô đậm thêm những hành vi bán nước của họ.

Tuy nhiên, để che giấu hành vi bán nước này, các bộ phận tuyên truyền của CSVN đều cố tình giải thích rằng việc Phạm Văn Đồng ký tên vào bản công hàm chỉ là cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc hầu tiến hành cuộc chiến tại Miền Nam. Dù giải thích thế nào đi nữa, qua công hàm Phạm Văn Đồng công bố vào năm 1958, đảng CSVN đã đặt quyền lợi của đảng cao hơn quyền lợi của dân tộc và đất nước.

Dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng, Trung Quốc ngày hôm nay đã bắt chẹt CSVN hai điều: 1/ Từ chối không bàn thảo về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đang chiếm đóng; 2/ Thuyết phục CSVN phải chấp nhận bàn thảo song phương dựa theo tinh thần hữu nghị của Phạm Văn Đồng. Ngoài hai điều này, Bắc Kinh còn dựa vào 16 chữ Vàng và 4 Tốt để “khuyến dụ” lãnh đạo CSVN đi theo con đường của Bắc Kinh với những biện minh mà Nguyễn Chí Vịnh đã khỏa lấp một cách trắng trợn rằng: “Có một thực tế là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam và Việt Nam không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Và Việt Nam cũng không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.

Rõ ràng là lãnh đạo đảng CSVN đang cố tình bao che cho những hành vi bán nước của Phạm Văn Đồng để tiếp tục nói ngược lại những thực tế đang xảy ra là Trung Quốc đã xâm chiếm Hoàng Sa (1974), Trường Sa (1988) và tuyên bố chủ quyền 80% diện tích Biển Đông qua đường lưỡi bò. Có thể đa số đồng bào trong nước vì thiếu thông tin và sợ bị quy chụp là phản động, nên đã không thấy được sự nguy hiểm của công hàm Phạm Văn Đồng. Do đó, bên cạnh việc khuyến khích nhiều người cùng xác định Hoàng Sa, Truờng Sa là của Việt Nam, chúng ta phải có nỗ lực vận động để kêu gọi mọi người đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội chính thức hủy bỏ công hàm Phạm Văn Đồng.

Trong một quốc gia, khi một bộ phận ban hành một văn kiện sai trái hay không còn phù hợp với quyền lợi quốc gia, bộ phận ngang bằng hoặc cao hơn có quyền thu hồi hay hủy bỏ. Công hàm Phạm Văn Đồng do Thủ tướng ký và không phải là văn kiện có phê chuẩn quốc tế hay quốc hội để phải thông qua những thủ tục rườm rà. Công hàm Phạm Văn Đồng có thể được hủy bỏ bởi một quyết định của Thủ tướng hay Chủ tịch nước. Đây chính là trách nhiệm của ông Trương Tấn Sang hay ông Nguyễn Tấn Dũng.

Tóm lại, để buộc Trung Quốc phải trả lại Hoàng sa, Trường sa vô điều kiện và giải quyết sòng phẳng chủ quyền trên Biển Đông trên bàn Hội nghị quốc tế đa phương, CSVN trước hết phải tuyên bố hủy bỏ công hàm Phạm Văn Đồng. Đây là điều kiện tiên quyết và khởi đầu của mọi nỗ lực “đàm phán” dù là song phương hay đa phương với Trung Quốc. Không dám hủy bỏ một sai phạm của lịch sử, CSVN tiếp tục đi bằng gối giữa Bắc Kinh và Hà Nội như Nguyễn Chí Vịnh và Hồ Xuân Sơn đang làm hiện nay mà thôi.

Trung Điền
Ngày 1/9/2011.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Đảng

Để chống lại sự lăng loàn, độc đoán của đảng, ở những nước đa đảng (như Mỹ, Pháp, Hàn, Nhật, Sing chẳng hạn), họ cấm tiệt việc sử dụng ngân sách phục vụ cho riêng đảng nào đó. Tất cả đều phải tự lo, kể cả chi phí cho mọi hoạt động lớn nhỏ, từ chiếc ghế ngồi họp tới cái trụ sở mà đảng sử dụng. Tham lậm vào tiền thuế của dân, nó sẽ tự kết liễu sự nghiệp bởi không có dân nào bầu cho thứ đảng bòn rút mồ hôi nước mắt mình làm lãnh đạo mình.

Ảnh chụp màn hình VOA

Nhóm trí thức Việt Nam đề nghị lãnh đạo chớ ‘nói suông,’ nên chân thành hoà giải

GS. TS. Nguyễn Đình Cống, người đã công khai từ bỏ đảng Cộng sản vào năm 2016 và là một thành viên ký tên trong bản kiến nghị, nói với VOA:

“Thực ra, đây là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhân dân Việt Nam hy sinh xương máu của cả hai bên để mang lại một chiến thắng cho đảng Cộng sản. Còn đối với dân tộc thì chẳng được gì cả. Nó chỉ mang lại được sự thống nhất về mặt lãnh thổ thôi. Còn sau chiến thắng ấy, không giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc. Đảng thì được. Đảng được vì đạt được chính quyền toàn quốc. Còn dân tộc thì việc hoà giải dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được.”

Ngày 30 Tháng Tư, người Việt ở hải ngoại gọi là ngày mất nước, ngày quốc hận. Ảnh minh họa: David McNew/Getty Images

Không cần hòa giải, cần đấu tranh!

Bốn mươi chín năm đã đủ lâu để những người có suy nghĩ đều nhận ra sự thật không ai là “bên thắng cuộc,” cả dân tộc là nạn nhân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Gần nửa triệu thanh niên miền Bắc, 280.000 thanh niên miền Nam bỏ mạng, 2 triệu thường dân vô tội chết trong binh lửa – đó là cái giá máu mà dân tộc này đã phải trả cho cái gọi là công cuộc “giải phóng miền Nam.”

Nhà thờ Đức Bà ngay trung tâm Sài Gòn, một thành phố từng được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông. Ảnh minh họa: Chris Jackson/ Getty Images

Tựa vào di sản miền Nam tự do, tôi chọn đứng thẳng

Ba Mươi Tháng Tư, cứ đến gần ngày này là trái tim người miền Nam lại nhói đau. Tôi là một người thế hệ 8x, tuy chưa từng trực tiếp chứng kiến cuộc chiến “nồi da xáo thịt” của đất nước giai đoạn trước 1975, nhưng gia đình tôi, tồn tại hai dòng tư tưởng quốc gia và cộng sản, và ông bà tôi, cậu, dì tôi là những nhân chứng sống cho giai đoạn lịch sử này.