Trước đây, các công ty nước ngoài khi quyết định vào Việt Nam mở xưởng đều biết rằng ở đất nước này tuy còn rất nhiều bất cập về mặt luật lệ, nhưng ngược lại ở đây có một lực lượng lao động đông đảo mà tiền lương thì rẻ. Nhà nước CSVN khi kêu gọi người nước ngoài vào đầu tư hầu như chỉ có một câu duy nhất để khuyến dụ là nước chúng tôi có “Lao động đông, nhân công rẻ”. Đến nay thì chỉ còn vế thứ hai là nhân công rẻ chứ lao động đông thì không. vì thực tế cho thấy Việt Nam thiếu cả thầy lẫn thợ, nhiều dự án đầu tư của ngoại quốc tại Việt Nam đang phải tính đến chuyện thuê lao động nước ngoài đến làm việc. Khi gọi là lực lượng lao động thì phải bao gồm cả thầy lẫn thợ, tức là chuyên gia và nhân công.

Theo con số thống kê của chính nhà nước CSVN đưa ra thì chỉ có 2.09% người dân tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Con số này quá thấp so với các nước láng giềng chứ chưa nói tới các quốc gia Âu Mỹ. Về số lượng đã là ít mà khả năng chuyên môn thì chẳng là bao, vì việc học ở Việt Nam chỉ nặng về lý thuyết, kém về thực hành. Ông Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc một trường đại học ở Sài Gòn, nói rằng đây là vấn đề lỗi của hệ thống (giáo dục) chứ không đơn giản là lỗi của cá nhân hay của một trường đại học nào cả. Muốn có thêm sinh viên thì phải mở thêm trường đại học và mở rộng khả năng đào tạo của các trường đại học sẵn có, nhưng ngưòi ta vẫn lo về chất lượng (kiến thức và khả năng giảng dạy) thầy cô, đó là việc ở Việt Nam rất đông tiến sĩ (15.000) nhưng dường như rất ít người có công trình nghiên cứu, mà nôm na là họ không viết nổi một bài báo khoa học cho báo chuyên ngành mà họ đã được học hành, đỗ đạt. Trong năm 2006, cả nước chỉ có 34 bài viết trong khi ở Hàn quốc là 4.446 bài, Bắc Kinh 3.000 bài. Ông giáo sư Nghĩa đặt ra câu hỏi phải chăng đây là lỗi của mỗi cá nhân các tiến sĩ? rồi tự trả lời là chắc chắn đúng nhưng chưa dủ, đây còn là lỗi của bộ Giáo dục Đào tạo. Bởi các nước người ta quy định: Mỗi năm, một tiến sĩ phải có hai bài báo cáo được đăng trên tạp chí chuyên ngành. Tiến sĩ nào hai năm liền không có công trình công bố thì bằng cấp của họ không còn giá trị.

Về thầy là như thế còn thợ thì sao? Thừa hay thiếu? Dân số Việt Nam ngày càng tăng, người ở tuổi lao động chiếm trên 60% thì nhân công không thể nào thiếu, thế mà cứ mỗi lần sau kỳ nghĩ Tết là các hãng xưởng, đặc biệt là những công ty trong nhiều khu chế xuất, lo sợ công nhân không trở lại làm việc. Những công ty đã có kinh nghiệm với chuyện này thì dù trong thời kỳ nghĩ Tết vẫn ráo riết tuyển dụng công nhân vì biết chắc sau Tết sẽ có nhiều người bỏ hảng. Những công nhân không trở hảng, phần đông đầu quân vào một công ty khác có mức lương cao hơn. Một nữ công nhân đang làm việc cho công ty Woe Haw International đã thẳng thắng trả lời câu hỏi của ký giả là sao không về quê ăn Tết như sau: Tết này em không về vì đưọc nhóm bạn cùng phòng trọ giao phó cho một nhiệm vụ tối quan trọng là trong dịp nghĩ Tết phải đi đến công ty, nhà máy ở các khu công nghiệp để khảo sát mức lương. Nếu ai trả cao, chế độ ngon hơn thì cả bọn sẽ cùng nhảy.
Đây không phải là trường hợp cá biệt của một nhóm người mà gần như là một hiện tượng, khi mà nhân viên không còn thiết tha với hảng vì đồng lương và chế độ làm việc thì chuyện nhảy hảng là điều tất nhiên, từ đó phát sinh tình trạng xáo trộn thị trường lao động mà trách nhiệm không thuộc về họ mà do ở các công ty muốn chèn ép công nhân. Ở các nưóc tự do dân chủ, khi một người lao động nào đó bị hảng bóc lột sức lao động thì có quyền vác đơn đi kiện, nhiều người bị thì cả hảng sẽ quyết định đình công để đòi quyền lợi mà không cần phải xin phép ai… Nhưng dưới chế độ cộng sản người công nhân không được tự ý đình công để đòi quyền lợi, tất cả phải do Công đoàn quyết định , mà Công đoàn là tổ chức của Đảng, hầu như không binh vực cho người lao động, luôn đứng về phía công ty.

Vì không còn tin vào Công đoàn nữa nên trong những năm vừa qua người lao động đã phải tự đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi cho chính mình mà chẳng cần qua Công đoàn, nhiều cuộc đình công trong những năm qua của người lao động lan rộng khắp nước là bằng chứng điển hình. Những cuộc đình công này lẽ ra phải được sự đồng tình của nhà nước, nhưng chính quyền CSVN thì lại lo sợ vì như thế sẽ làm mất lòng các ông chủ đầu tư nước ngoài. Những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay sẵn sàng hy sinh quyền lợi của người lao động để lấy đó làm phương tiện kêu gọi người ngoại quốc vào đầu tư. Khi người dân suốt đời chỉ nai lưng ra làm công cho các ông chủ nước ngoài với mức lương chết đói thì đất nước không thể nào phát triển được, chắc chắn là như vậy.
Ngô Văn