Tại sao Việt Nam phải ghi nhớ ngày 17 tháng 2

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Nguy hiểm nằm trong việc lãng quên một cuộc chiến tàn bạo

Phạm Hồng Sơn, Epoch Times, 15/02/09, Khưu Bình lược dịch

HÀ NỘI—17 tháng 2 đánh dấu kỷ niệm lần thứ 30 ngày bùng nổ ra cuộc chiến Việt-Trung. Cuộc chiến đó tuy ngắn ngủi –chỉ khoảng chừng một tháng– nhưng rất đẫm máu và tàn bạo khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng. Nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp, nhiều phụ nữ và trẻ em bị giết bằng cách chém cho đến chết bằng rìu hoặc dao rừng, và gần như tất cả các cơ sở hạ tầng dân sự ở 6 tỉnh biên giới Việt Nam đều hoàn toàn bị phá huỷ.

Khi tôi viết bài này, thì chỉ còn vài ngày nữa là đến dịp kỷ niệm lần thứ 30 của cuộc chiến, nhưng không có bài báo nào trong các cơ quan truyền thông báo chí chính thức của Việt Nam nhắc nhở về sự kiện quan trọng này. Trong nhiều năm gần đây, truyền thông báo chí chính thức tại Việt Nam đã duy trì một thái độ dè dặt đối với các đề tài dính dáng đến Trung Quốc như hiệp định bí mật về biên giới năm 1999, và các quần đảo hoặc di tích lịch sử chung với hoặc bị chiếm đóng bởi Trung Quốc.

Nhiều nhà tranh đấu và các blogger đã cố gắng lên tiếng cảnh báo về tai hoạ Trung Quốc đều bị bỏ tù hoặc đe doạ. Ðiều rõ ràng là giới lãnh đạo đang cầm quyền ở Việt Nam không muốn tưởng nhớ đến một sự kiện quan trọng như cuộc chiến này; họ đang giữ im lặng và mưu tính bịt miệng người khác trước bộ mặt bá quyền Trung Quốc.

Những nguy hiểm của sự im lặng

Có 3 điều nguy hiểm gây ra từ sự im lặng đó.

Thứ nhất, một mối nguy hiểm đang xảy ra bên trong Việt Nam. Một nhân tố thiết yếu tạo ra tính chính đáng cho sự lãnh đạo duy nhất của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong 5 thập niên qua là những nỗ lực của họ nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước.

JPEG - 37.5 kb
Lính Trung Quốc kiểm tra xác binh sĩ Việt Nam trong trận chiến Việt-Trung 1979. (Nguồn: Quốc Phòng Trung Quốc)

Cho dù có những ý kiến khác nhau như thế nào về hai cuộc chiến lớn trong thế kỷ thứ 20 ở Việt Nam, một với người Pháp và một với chế độ do Hoa Kỳ ủng hộ, thì Ðảng Cộng sản Việt Nam (ÐCSVN) đã đi tiên phong và trở thành kẻ chiến thắng.

Trong lịch sử lâu dài của Việt Nam, niềm tự hào dân tộc nằm ở chỗ không bao giờ khuất phục trước kẻ tấn công hoặc xâm lược, nhất là trước kẻ xâm lăng truyền thống từ phương Bắc. Một vài lãnh tụ Việt Nam trong lịch sử đã chạy sang láng giềng phương Bắc xin giúp đỡ chống lại các cuộc nổi dậy của quần chúng đều bị lên án một cách nghiêm khắc.

Thêm nữa, chiến thuật của ÐCSVN trong khi họ đang cố tranh giành quyền lực là luôn luôn tìm mọi cơ hội để buộc tội đối phương là hợp tác với kẻ thù bên ngoài. Nhưng trớ trêu thay, bây giờ lại chính là ÐCSVN đang chấp nhận để yên cho đất, biển và các quần đảo của Việt Nam mất vào tay Trung Quốc trong hơn 5 thập niên qua.

ÐCSVN phải biết rằng một sự phẫn nộ đang sôi sục trong quần chúng, hiện đang nhận thức rõ về những nhượng bộ này. Một cựu chiến binh đã từng chiến đấu trong cuộc chiến Việt-Trung hồi năm 1979 mới đây đã viết trong một trang blog cá nhân gọi là Osin: “Cái mà chúng ta gọi là chiến thắng đã phải trả bằng đầu rơi máu chảy… Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi chúng tôi sục sôi tiến về biên giới, đảo vẫn mất mà đất nước lặng im”.

’’ÐCSVN bây giờ đang cố gắng dùng mọi nỗ lực để che dấu sự nhượng bộ của họ đối với kẻ xâm lược phương Bắc. ÐCSVN có thể thành công trong việc bịt miệng người dân tới một mức nào đó, nhưng qua thời gian, với sự yểm trợ của mạng Internet tinh vi, sự thật sẽ đến với từng người một. Và sự im lặng hiện nay sẽ trở nên nguy hiểm như một cái nắp đậy kín trên một cái nồi nóng hổi đang sôi sục.

Những tham vọng của chế độ Trung Quốc

Mối nguy hiểm thứ hai là khuyến khích tham vọng đế quốc của chế độ Trung Quốc. Trung Hoa rất rộng lớn về mặt địa lý và vĩ đại về văn hóa lẫn lịch sử. Trong quá khứ xa xăm, nước Trung Hoa qua hàng thế kỷ đã là một cường quốc. Cho nên một tham vọng để lấy những hình ảnh đã qua của một cường quốc, đem trở lại cho một nước Trung Quốc đương thời thì tự nhiên là một điều dễ hiểu.

Nhưng Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ÐCSTQ), độc nhất nắm giữ quyền cai trị Trung Hoa kể từ năm 1949, đã đi theo nhiều đường lối sai lầm đầy tai hại để đạt được tham vọng này. Trong thời kỳ Mao Trạch Ðông từ năm 1949 đến năm 1976, Trung Quốc đã thực hiện một loạt các chính sách hoang tưởng như cuộc “Vận động chống cánh hữu” (1957), chiến dịch “Ðại nhẩy vọt” (1958-1960), và cuộc “Cách mạng văn hóa” (1966-1969). Những chiến dịch vận động này chỉ mang lại sự chết chóc cho hàng chục triệu người và một sự tàn phá to lớn đối với nền văn hóa cổ truyền và môi trường thiên nhiên của Trung Quốc.

Ðặng Tiểu Bình trở thành kẻ kế nhiệm Mao vào năm 1978 và mở cửa cho nền kinh tế Trung Quốc đồng thời tìm kiếm kỹ thuật hiện đại. Nhưng Trung Quốc vẫn giữ trong mình những mầm mống của một tai ách xảo quyệt, giống như Nhật Bản trong thời đại Meija hoặc nước Ðức trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ nhất đã gặp phải. Nước Ðức và Nhật Bản, phát triển thành các nền kinh tế hùng mạnh bằng cách áp dụng các kiến thức và hiểu biết khoa học, cả hai đã từng bị các nền chính trị độc tài hướng dẫn vào một mưu đồ giành quyền làm bá chủ – Thế chiến thứ 2.

Cho nên im lặng hoặc tuân theo thái độ của ÐCSVN trước chính sách bá quyền hướng về phía nam của Trung Quốc có ảnh hưởng thúc đẩy ÐCSTQ mạo hiểm thêm vào một con đường sai lầm đầy tai họa.

Làm mất ổn định

Ðiều nguy hiểm thứ ba là làm mất ổn định nền hoà bình trong khu vực và cả thế giới. Trong quá trình lịch sử lâu dài của các thời kỳ trước đây, chiến tranh không phải là một hiện tượng hiếm có đối với cả hai nước như Việt Nam và kẻ láng giềng phương Bắc. Gần như tất cả mọi triều đại ở Trung Hoa đều thực hiện ít nhất một cuộc xâm lăng vào láng giềng Việt Nam ở phương Nam.

Nhưng các lãnh tụ Việt Nam, cùng với người dân, đã luôn luôn cương quyết bảo vệ chủ quyền và danh dự của đất nước họ, mặc dù các lãnh tụ này phải thực hiện một chính sách ngoại giao khéo léo đối với kẻ láng giềng khổng lồ phương Bắc sau bất cứ chiến thắng nào. Vì thế qua hàng thế kỷ, tinh thần kháng cự của người dân Việt Nam đã tạo ra một bức màn chắn bất khuất bảo vệ cho các quốc gia Ðông Nam Á chống lại sự xâm lăng của phương Bắc. Nhưng giới lãnh đạo đương thời ở Việt Nam hiện nay, ÐCSVN, đã thất bại trong việc bắt chước theo sự khôn ngoan của tiền nhân, và bức màn chắn lịch sử của Việt Nam cung cấp hoà bình cho khu vực và thậm chí cả thế giới đang bị vỡ nát.

Một lối thoát

Trong lúc đang khủng hoảng kinh tế, người ta có thể thờ ơ không lo lắng về bất cứ điều gì khác hơn việc kiếm tiền. Do đó, một cuộc chiến ngắn ngủi như chiến tranh Việt – Trung đã bùng nổ cách đây 30 năm có thể không thu hút nhiều chú ý. Nhưng khát vọng của kẻ tấn công để dành quyền làm bá chủ vẫn còn ác liệt và dường như mạnh mẽ hơn.

Quan trọng hơn, kẻ tấn công hành xử một cách hung hăng không phải chỉ đối với phía bên ngoài mà cả với những người bên trong, khi nhiều nhà tranh đấu dân chủ ở trong Trung Quốc phải đối diện với sự đàn áp. Cũng như có bao nhiêu người Trung Hoa ngày hôm nay đang lên tiếng kêu gọi cho dân chủ, thì cũng có bấy nhiêu người Việt Nam. Dân chủ được chứng minh là giải pháp tốt nhất để dàn xếp bất cứ sự tranh chấp hoặc rắc rối nào mà không cần đến bạo động, đồng thời là guồng máy tốt nhất để xây dựng sự thuận hòa xã hội và thịnh vượng quốc gia trong một nền hòa bình bền vững.

Một bước nhỏ đi về hướng đem lại dân chủ cho cả Việt Nam lẫn Trung Quốc là hãy lên tiếng nói về ý nghĩa của ngày 17 tháng 2.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Tô Lâm trong buổi tiếp đón Tổng thống Nga Vladimir Putin, tại phủ chủ tịch ở Hà Nội, ngày 20/06/2024. Ảnh: Reuters - Minh Hoang

Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam

Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là “bước đệm” cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam – tổng bí thư và chủ tịch nước – là “một thắng lợi hoàn toàn” của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…