Tây Nguyên trước nguy cơ bị tàn phá bởi dự án khai thác bauxit

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Thanh Phương – RFI http://www.rfi.fr/actuvi/articles/1…

Bất chấp những ý kiến phản đối của giới chuyên gia và của dư luận Việt Nam nói chung, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng giêng vừa qua đã tuyên bố là chính phủ vẫn cương quyết thực hiện dự án khai thác bauxit tại vùng Tây Nguyên. Tuy không phải là một nhà khoa học, nhưng nhà văn Nguyên Ngọc là người vẫn rất gắn bó với Tây Nguyên và hiểu rất rõ về vùng này. Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe phần ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc về dự án nói trên.

Dự án này đã được phê duyệt từ đầu năm 2007. Trong bản thông báo, thủ tướng Việt Nam giao cho Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải tổ chức một Hội thảo khoa học về việc thăm dò khai thác bauxit, cũng như ảnh hưởng của dự án này đến môi trường. Thế nhưng, ông Nguyễn Tấn Dũng còn yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo cho báo chí là không được đưa tin về ảnh hưởng của dự án khai thác bauxit đến môi trường ở Tây Nguyên.

Sự bưng bít thông tin này lại càng khiến cho nhiều người dân Việt Nam nói chung và người dân Tây Nguyên nói riêng vẫn mơ hồ về tác động của một dự án mà theo nhiều chuyên gia, không hề có lợi chút nào cả về mặt kinh tế lẫn môi trường, mà lại gây tác hại về nhiều mặt cho vùng Tây Nguyên.

JPEG - 25.3 kb

RFI : Ban Việt ngữ RFI rất hân hạnh được tiếp chuyện với nhà văn Nguyên Ngọc hôm nay. Thưa ông, trước hết xin ông nhắc lại những phản ứng của giới chuyên gia và dư luận nói chung về dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên ?

Nhà văn Nguyên Ngọc : Trước hết cũng phải nói rằng, thật ra, có hai luồng dư luận : dư luận phản đối những dự án bauxit ở Tây Nguyên và dư luận đồng tình với những dự án đó. Tuy nhiên, số ý kiến không đồng tình thì nhiều hơn rất nhiều. Những ý kiến phản biện đều cho là những dự án đó đều không được về tất cả mọi phương diện. Chiến lược lấy khai thác tài nguyên làm chính là một khái niệm rất cũ, thế giới người đã đi qua cái đó rồi.

Vừa rồi anh Trần Văn Thọ có một bài viết rất hay về quan hệ Bắc – Nam trong sự phát triển. Theo tác giả, phía Nam phải vượt qua giai đoạn chỉ khai thác tài nguyên cho phía Bắc. Điều đó rất đúng. Việt Nam mà cứ loay hoay trong cái đó thì rất nguy hiểm. Ngoài ra, theo tính toán của các chuyên gia, những dự án này hoàn toàn không có lợi, mà thậm chí bị thua thiệt rất nhiều về mặt kinh tế.

Đó là nói về ý kiến của giới chuyên gia, con dư luận nói chung quan tâm nhiều đến môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội của Tây Nguyên.

RFI : Thưa ông Nguyên Ngọc, theo ông, như vậy những dự án khai thác bauxit sẽ có tác động như thế nào về môi trường và văn hóa, xã hội đối với Tây Nguyên ?

Nguyên Ngọc : Về môi trường tự nhiên, như ta đã biết, Tây Nguyên giống như mái nhà của Đông Dương. Mình làm gì trên cái mái nhà đó, nếu không khéo có thể làm rúng động toàn bộ khu vực. Khai thác bauxit thì sẽ hũy hoại rừng, điều đó đã rõ. Như ở Dăk Nong chẳng hạn. Các mỏ bauxit của Tây Nguyên có đặc điểm là lớp quặng rất mỏng, chỉ từ 3 đến 5 mét hoặc nhiều lắm là 5 đến 7 mét. Vì vậy, diện phân bố của nó rất rộng. Trước khi lấy bauxit thì phải phá rừng ở trên, sau đó bóc một lớp đất, rồi sau đó mới đến lớp bauxit.

Cho nên, diện sinh thái bị hủy hoại, bị thay đổi là rất rộng và như vậy là nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến bản thân Tây Nguyên và đến toàn khu vực Nam Đông Dương. Nếu nó ảnh hưởng đến sườn của Cam Bốt thì có nghĩa là nó ảnh hưởng đến cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vùng Tây Nguyên giống như là máy điều hòa khí hậu cho cả vùng Đông Dương. Nếu bị tàn phá thì nó sẽ có ảnh hưởng đến khí hậu của toàn bộ khu vực này.

RFI : Thưa ông Nguyên Ngọc, người dân Tây Nguyên đa số sống nhờ vào các cây công nghiệp. Vậy thì họ có thật sự cảm thấy lo lắng khi thấy chính phủ sẽ triển khai dự án khai thác bauxit, một dự án sẽ phá rất nhiều diện tích canh tác ?

Nguyên Ngọc : Đúng là đa số dân Tây Nguyên sống dựa rất nhiều vào các loại cây công nghiệp, như cao su hay cà phê. Ở trên tôi chỉ mới nói đến tác động về môi trường, về đất đai, nhưng còn phải nói đến nguồn nước nữa. Vấn đề nước ở Tây Nguyên hết sức khó khăn, vì ở vùng này sáu tháng mưa, sáu tháng nắng. Bây giờ, kiếm đủ nước để tưới cho các cây công nghiệp cũng đã là khó khăn. Nếu thực hiện dự án bauxít thì sẽ đòi hỏi rất nhiều nước, cho nên, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc canh tác cao su, cà phê.

Thế nhưng, do đa số người dân ở Tây Nguyên không được thông tin đầy đủ, cho nên, có nhiều người nghĩ rằng làm bauxit có nghĩa là công nghiệp hóa, tức là sẽ làm giàu cho các địa phương. Thật ra, kinh nghiệm suốt mấy chục năm qua cho thấy là ở Tây Nguyên chưa bao giờ có nơi nào đưa được người dân bản địa vào trong các nhà máy hiện đại cả.

Ngay cả việc trồng cao su, cà phê, nếu sử dụng máy móc hiện đại thì cũng đã khó mà đưa người dân bản địa vào.

Nhiều chuyên gia đã tính toán rằng với số vốn đầu tư đó, thay vì đổ vào dự án bauxit, nếu đổ vào cho cao su và cà phê thì sẽ có lợi hơn rất nhiều, cả về mặt thu nhập lẫn tạo ra công ăn việc làm. Thế nhưng, do không được thông tin đầy đủ, những người nào có quyền lợi bị động chạm trực tiếp thì mới lo lắng, nhưng cũng có những người hy vọng vào dự án đó. Những người chủ trương làm thì chỉ tuyên truyền những cái hay ho, những kết quả tốt đẹp mà bauxit có thể đem lại. Cho nên, không phải ai cũng thấy ngay sự nguy hại, sự thiệt thòi. Chính vì thế mà các chuyên gia phải cố gắng thông tin nhiều hơn nữa cho nhân dân.

JPEG - 50.9 kb
Phong cảnh đồi núi phía bắc Tây Nguyên

RFI : Thưa ông Nguyên Ngọc, là một người thường xuyên đến vùng Tây Nguyên, ông đã chứng kiến những tác hại đến môi trường ở Tây Nguyên như thế nào trong những năm qua ?

Nguyên Ngọc : Những năm phát triển vừa qua đã tàn phá Tây Nguyên rất nhiều . Rừng Tây Nguyên nay còn rất ít. Tôi biết rõ là nơi có rừng tốt, tức là nhìn đẹp mắt, nay chỉ còn ở khu vực núi Ngọc Linh, phía Bắc Kon Tum và vùng Kon Plông ở phía Tây Kon Tum. Kon Tum là nơi giữ được rừng tương đối tốt hơn cả. Ngoài ra cũng có một số khu bảo tồn. Nhưng ngay cả những khu đó cũng bị phá nhiều.

Nói chung, so với thời chiến tranh, rừng Tây Nguyên về cơ bản đã mất gần hết. Điều này rất nguy hiểm vì nó ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, vì nó gây nên khô hạn, làm đảo lộn khí hậu, ảnh hưởng rất xấu đến đời sống văn hóa xã hội của Tây Nguyên. Dân Tây Nguyên có nền văn hóa gắn rất chặt với tự nhiên, cho nên khi tự nhiên bị tàn phá thì nó ảnh hưởng rất xấu đến văn hóa và xã hội.

RFI : Vậy thì trong những dự án lớn như vậy, theo ông, chính phủ cần phải công bố rộng rãi cho dân chúng để mọi người biết và tham gia đóng góp ý kiến ?

Nguyên Ngọc : Những việc liên quan trực tiếp đến người dân, dù lớn hay nhỏ, người dân đều phải được thông tin. Bưng bít thông tin với người dân là sai. Người dân phải có quyền được thông tin về những việc có liên quan đến họ chứ!

Khai thác bauxit là dự án lớn nhất ở Tây Nguyên từ trước đến nay, vậy mà người dân không được thông tin đầy đủ là không được. Những ý kiến có thể là khác nhau, nhưng phải thông tin cho người dân cả nước biết, đặc biệt là ngươi dân ở Tây Nguyên.

Có những điều mà các nhà khoa học gọi là tri thức bản điạ. Người dân Tây Nguyên sống trong cái môi trường tự nhiên và văn hóa đó từ hàng bao nhiêu nghìn năm nay rồi. Họ có những tri thức đặc biệt, nhờ đó mà họ đã tồn tại và vượt qua những thử thách từ hàng nghìn năm nay. Khi tiến hành những dự án lớn như vậy, nếu không quan tâm xử trí vấn đề tri thức này thì sẽ rất nguy hiểm.

RFI: Trước đây, khối COMECON (Hội đồng tương trợ kinh tế) đã từng dẹp bỏ dự án bauxít vì thấy không có lợi. Theo ông thì chúng ta có nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài, để ít rút tỉa những kinh nghiệm từ những nước khác đã từng có những dự án tương tự.

Nguyên Ngọc: Tôi thấy việc thủ tướng giao cho phó thủ tướng Hoàng Trung Hải nhiệm vụ chuẩn bị tổ chức một hội thảo về vấn đề này, trong đó mời cả chuyên gia trong và ngoài nước, là tốt, bởi vì khai thác bauxit là việc mà nhiều nước đã làm. Họ đã từng gặp những thách thức và ta phải xem họ đã giải quyết những thách thức như thế nào, như vấn đề môi trường, bùn đỏ, ảnh hưởng đến tự nhiên và xã hội.

Có nơi giải quyết thành công, nhưng cũng có nơi giải quyết không thành công. Theo tôi biết thì Trung Quốc đã đóng cửa hàng trăm mỏ bauxit và chủ trương là đưa cái đó ra nước ngoài. Tôi nghĩ là cần phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài.

RFI: Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Quang cảnh buổi Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội, Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ tổ chức hôm 6/5/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ - một ngày trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tình hình nhân quyền VN (UPR Vietnam, 4th Cycle)

Những dấu ấn từ Hội thảo UPR ở Geneva, Thụy Sĩ

Sébastien Desfayes, luật sư, dân biểu và chủ tịch COSUNAM, nhắc lại rằng năm 2019, Việt Nam đã chấp nhận 83% các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế. Nhưng 5 năm sau (2024), tình hình đối với những người bảo vệ nhân quyền ngày càng xấu đi. LS Desfayes không tin rằng Hà Nội sẽ tự động thay đổi “trở nên tốt hơn” sau UPR 2024. Mà nhà nước Việt Nam sẽ chỉ giảm bớt đàn áp khi bị áp lực.

“Tình hình nhân quyền sẽ không được cải thiện từ phía nhà nước Việt Nam, mà sẽ phải nhờ vào sự tranh đấu của chúng ta, và điều chắc chắn là chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam,” Luật sư Sébastien Desfayes kết luận.

Sư Minh Tuệ. Ảnh: Internet

Sư Minh Tuệ và pháp hành dưới góc nhìn Phật Giáo

Đến hôm nay, sư Minh Tuệ được rất nhiều người biết tới (tôi không thích dùng từ “nổi tiếng” đối với một bậc tu hành) và có sức lan toả rộng khắp, vượt ra cả biên giới quốc gia. Và câu chuyện về sư Minh Tuệ trở nên nóng hơn bao giờ hết, khắp mạng xã hội tràn ngập những video và hình ảnh về ông. Theo đó là rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Kính phục, ngưỡng mộ… có; chê bai, miệt thị … có. Muôn nẻo trần ai!

Bà Uzra Zeya, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền. Ảnh: RFA

Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ: Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm trọng các quyền tự do cơ bản

Bà Uzra Zeya – Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách An ninh Dân sự, Dân chủ và Nhân quyền nói sẽ tiếp tục tạo sức ép để chính quyền Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản, trả tự do cho hơn 180 tù nhân chính trị và chấm dứt tình trạng đàn áp xuyên biên giới.

Bà Uzra Zeya còn bày tỏ mối quan ngại sâu sắc khi Hà Nội tiếp tục áp đặt những hạn chế nghiêm trọng đối với tất cả các quyền tự do cơ bản, bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp ôn hòa, tự do tôn giáo… hay điều kiện giam giữ hà khắc đối với các tù nhân chính trị bị kết án một cách bất công.

Phái đoàn đảng Việt Tân, Ủy Ban Thuỵ Sĩ-Việt Nam (Cosunam), Freedom House và Hmong Human Rights Coalition vận động Phái bộ Thường trực Na Uy tại LHQ, Geneva trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tình hình nhân quyền Việt Nam 2024. Ảnh: Việt Tân

Vận động quốc tế trước phiên kiểm điểm định kỳ tình hình nhân quyền VN đã diễn ra thế nào?

Trong hai ngày 2 và 3/5/2024, vài ngày trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tình hình nhân quyền Việt Nam 7/5/2024 trước Hội đồng Nhân quyền LHQ ở Geneva (UPR – Vietnam, 4th Cycle), một phái đoàn gồm đại diện của đảng Việt Tân, Ủy ban Thụy Sĩ – Việt Nam (COSUNAM), Freedom House và Liên minh Nhân quyền H’mong (Hmong Human Rights Coalition) đã đi vận động nhân quyền cho Việt Nam.

Phái đoàn đã gặp đại diện của Văn phòng Phái bộ Thường trực tại LHQ của 8 quốc gia thành viên LHQ, 4 nhóm làm việc, đại diện đặc sứ của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ và các tổ chức nhân quyền phi chính phủ. Các quốc gia tiếp đón phái đoàn vận động là Văn phòng Phái bộ Thường trực Na Uy, Anh Quốc, Luxembourg, Mỹ, Hoà Lan, Đan Mạch và Thụy Sĩ.