Những quan niệm chia cách Trung Quốc với Hoa Kỳ

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Gideon Rachman
28/09/15

Tổng thống Hoa Kỳ và Chủ tịch Nước Trung Quốc thật sự không biết cách nói chuyện với nhau. Họ như hai cái máy tính chạy trên hai hệ điều hành khác nhau. Đó là nhận xét của một viên chức Hoa Kỳ từng quan sát cận kề nhiều buổi họp thượng đỉnh Mỹ-Trung. Thành ra tuy cả hai phía đều nhấn mạnh là buổi gặp gỡ tuần rồi có tính xây dựng, tôi thì hoài nghi điều đó. Lý do là Trung Quốc và Hoa Kỳ có cách nhìn đời rất khác nhau. Tôi thấy có năm điểm khác biệt.

1. Theo chu kỳ hay theo đường thẳng: Trung Quốc có một lịch sử rất lâu đời. Hoa Kỳ có lịch sử rất ngắn. Họ Tập thường hay khoe là “Trung Quốc là một nền văn minh lâu đời. Chúng tôi có 5.000 năm lịch sử”. Còn Hoa Kỳ thì mới hiện hữu dưới 250 năm. Sự khác biệt này có tác động sâu sắc lên giới lãnh đạo của hai quốc gia khi suy nghĩ về thế giới này. Một cách khái quát, người Trung Quốc suy nghĩ có tính cách theo chu kỳ, vì lịch sử Trung Quốc được định bởi các triều đại lên rồi xuống. Có những thời kỳ tốt đẹp kéo dài cả thế kỷ được tiếp nối bởi những thời kỳ tồi tệ cũng kéo dài cả mấy trăm năm. Ngược lại, kể từ khi độc lập vào năm 1776, Hoa Kỳ chỉ có một đường – là đường thẳng tiến quốc gia ngày càng hùng mạnh, đời sống thịnh vượng. Vì thế mà chính trị gia Mỹ thường nghĩ đến lịch sử theo kiểu đường thẳng và tin rằng tiến triển là quy luật tự nhiên.

2. Phổ quát hay đặc thù: Niềm tin lập quốc của Hoa Kỳ là “mọi người sinh ra đều bình đẳng” và có những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm. Từ đó người Mỹ tin vào những giá trị phổ quát như tự do và dân chủ, nên được áp dụng mọi nơi. Người Trung Quốc, ngược lại, là theo chủ nghĩa đặc thù. Họ tin rằng cái gì phù hợp cho Trung Quốc không nhất thiết phù hợp cho thế giới và ngược lại. Khác biệt trong sự suy nghĩ này tạo cơ sở cho hai hướng tương phản khi giải quyết các xung đột trên thế giới và việc bảo vệ nhân quyền.

3. Ý thức hệ hay dân tộc tính: Quốc gia Hoa Kỳ được dựng lên dựa vào những quan niệm căn bản trong Tuyên Ngôn Độc Lập và bản Hiến Pháp. Hàng triệu người di dân trở thành người Mỹ khi định cư tại Hoa Kỳ và ôm lấy những quan niệm đó. Ngược lại Trung Quốc có cái nhìn dựa nhiều vào dân tộc tính khi nói đến việc như thế nào là một người Trung Quốc. Nếu tôi dọn qua Mỹ ở, tôi có thể trở thành “người Mỹ” khá lẹ làng và con tôi chắc chắn sẽ trở thành dân Mỹ. Nhưng nếu dọn qua Trung Quốc ở sẽ không làm cho tôi và con tôi trở thành người Trung Quốc. Vì thế người Trung Quốc và người Mỹ có những giả thiết khác biệt về các ý niệm cốt yếu như quốc gia, quốc tịch, di dân.

4. Cá nhân hay cộng đồng: Giới lãnh đạo Hoa Kỳ nhấn mạnh về quyền của các cá nhân. Lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh về lợi ích tập thể. Khác biệt giữa cá nhân chủ nghĩa của Mỹ và tính cộng đồng của Trung Quốc thẩm thấu vào thái độ ứng xử đối với nhà nước. Ở Mỹ, ý niệm cho rằng cá nhân cần được bảo vệ chống lại một nhà nước quá mạnh được viết vào hiến pháp và luôn được nhắc đến trong các luận cứ chính trị. Bên Trung Quốc thì thường cho rằng một nhà nước mạnh là điều bảo đảm để giữ ổn định tránh nội chiến và đổ máu. Nhiều người Mỹ cho rằng lập luận đó chỉ đơn thuần phản ánh quyền lợi riêng của đảng Cộng sản. Tuy nhiên điều đó thật sự có gốc rễ lịch sử sâu xa. Người Mỹ có thể truy ngược lại việc nhấn mạnh về quyền cá nhân đến Cuộc Chiến Độc Lập hồi thế kỷ thứ 18. Trong khi đó để nhấn mạnh nhu cầu có một nhà nước mạnh, giới lãnh đạo Trung Quốc thường nhắc đến thời “Chiến Quốc” bắt đầu từ năm 476 trước Công Nguyên.

5. Quyền hạn hay thứ bậc: Khác biệt quan điểm về nhà nước dẫn đến cái nhìn tương phản về giềng mối xã hội. Người Mỹ nhấn mạnh đến quyền cá nhân và luật pháp. Trong khi Trung Quốc gần đây cũng hay nói đến nhu cầu củng cố “pháp quyền”, thì đảng Cộng Sản cùng lúc cổ xúy truyền thống Khổng giáo, trong đó nhấn mạnh đến thứ bậc và nghĩa vụ, cần thiết để giữ tôn ti trật tự cho xã hội. Một lần nữa điều này có ngụ ý cho lãnh vực ngoại giao – vì nó ảnh hưởng đến quan điểm của Trung Quốc về quan hệ thích đáng giữa các nước lớn, như Trung Quốc, và các nước láng giềng nhỏ.

Kích cỡ của Trung Quốc luôn ảnh hưởng đến cách nhìn ra thế giới bên ngoài. Ở đây có điểm tương đồng với Hoa Kỳ. Cả hai quốc gia đều có tâm tính trung tâm thiên hạ. Ý niệm trung tâm của thiên hạ có gốc rễ lịch sử cổ xưa của Trung Quốc. Một sử gia mô tả là “niềm tin mãnh liệt của người Trung Quốc xem rằng xứ của họ là trung tâm của thiên hạ”. Niềm tin này bị lung lay bởi ‘thế kỷ ô nhục” bắt đầu từ 1840 khi các đế quốc Âu châu và Nhật Bản đánh bại nhà Thanh. Nhưng một quốc gia Trung Quốc trổi dậy gần đây bị xem là trở lại tâm tính Trung Tâm Thiên Hạ, nhất là về cách đối xử với các quốc gia Á châu khác.

Hoa Kỳ thì đã quen với vai trò cường quốc duy nhất trên thế giới. Chính sách ngoại giao của Mỹ vẫn dựa trên niềm tin rằng Hoa Kỳ là “sức mạnh không thể thiếu” để giữ ổn định toàn cầu. Các Tổng thống Hoa Kỳ, cũng như các Hoàng đế Trung Quốc ngày xưa, đã quen tiếp nhận các quà “triều cống” quý giá từ khách nước ngoài.

Điều an ủi là tìm được ít ra một điểm giống nhau giữa hai nước. Điều lo ngại là khi cả hai nước đều xem mình là Trung Tâm Thiên Hạ thì chỉ có thể một người đúng.

Radio Chân Trời Mới – Hoàng Thuyên lược dịch

Nguồn: Financial Times

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 22 – 28/4/2024

Nội dung:

– Tưởng niệm Quốc Tổ Hùng Vương tại thành phố Hamburg, Bắc Đức;
– Kêu gọi tham gia biểu tình và văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR tại Genève, Thụy Sĩ;
– Mời tham dự và đón nghe: i) Hội luận “49 năm sau biến cố 30/4/1975 – Tại sao hòa giải với Mỹ mà không với Dân tộc?;” ii) Chương trình văn nghệ gây quỹ Hát Cho Đồng Bào Tôi với chủ đề “Tháng Tư thắp nén hương trầm;” iii) Hội luận “UPR – Tường trình đến quốc tế việc nhà nước CSVN đàn áp tôn giáo;”
– Quan điểm của Việt Tân về tình hình đất nước trước những biến động chính trị trong nội bộ đảng CSVN.

Ông Vương Đình Huệ phát biểu trong khóa họp Quốc hội, Hà Nội, Việt Nam, ngày 23/10/2023. Ảnh: AFP - STR

Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ phải từ chức

Hãng tin Anh Reuters cho rằng việc chủ tịch Quốc hội Việt Nam phải từ chức lại càng làm dấy lên nhiều nghi vấn về ổn định chính trị tại Việt Nam nhất là sau vụ Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã nhanh chóng bị cho thôi các chức vụ hồi tháng 3/2024. Ông Thưởng là chủ tịch nước thứ nhì bị cách chức trong vòng một năm, sau ông Nguyễn Xuân Phúc.

Ông Tô Lâm (trái) và ông Vương Đình Huệ. Ảnh: Thanh Niên

Về cuộc tranh giành quyền lực ở Ba Đình

Tin đồn mới nhất cho biết ông Huệ vẫn kiên cường chống trả, chưa chịu buông giáo đầu hàng dù tay chân thân tín đã bị ông Lâm tóm gọn. Có thể ông Huệ còn trông mong vào sự cứu viện của hoàng đế Tập Cận Bình bên Tàu. Nhưng trận đấu chỉ giằng co thêm một vài ngày nữa thôi, vì theo quy định của đảng CSVN, ông Huệ khó mà tránh được tội liên đới “trách nhiệm của người đứng đầu” khi các đàn em sa vào vòng lao lý, chưa kể ông Lâm còn nhiều độc chiêu sẽ tiếp tục tung ra để buộc ông Huệ phải cởi giáp quy hàng.

Lính hải quân Campuchia tại căn cứ hải quân Ream ở Preah Sihanouk trong một chuyến thăm do chính phủ tổ chức hôm 26/7/2019. Ảnh minh họa: AFP

Quân cảng Ream và Kênh đào Funan của Campuchia: nỗi lo lớn đối với Việt Nam

Hôm 18/4/2024, Chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố thông tin về hai tàu hải quân Trung Quốc đã đậu ở căn cứ hải quân Ream của Campuchia trong hơn bốn tháng…

Từ đó, AMTI đặt câu hỏi liệu sự hiện diện thường trực của hải quân Trung Quốc tại quân cảng Ream đã được thiết lập trên thực tế hay mới chỉ là “lời đồn.”

Theo các chuyên gia, sự kết hợp giữa quân cảng Ream và kênh đào Phù Nam [Funan Techo] có thể tạo mối đe dọa an ninh truyền thống (quân sự) và an ninh phi truyền thống (môi trường, kinh tế, chính trị) đối với Việt Nam.