Đức Giáo Hoàng John Paul II: Sự Nghiệp Lịch Sử vì Công Lý và Hoà Bình

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
JPEG - 7.8 kb

Sau bao năm trời vật lộn với bệnh tình và sức khoẻ, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã từ trần vào 21:39 giờ địa phương, Thứ Bảy 2/4/2005, hưởng thọ 84 tuổi.

Vào những ngày cuối của cuộc đời, tuy không nói thành lời vì bị mổ cuống họng, Đức Giáo Hoàng John Paul II muốn dùng hết sức lực có được để nói chuyện và an ủi những tín hữu đã đến vấn an và cầu nguyện cho Ngài. Những cử chỉ này phần nào cho thấy sự quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của Ngài cho tình thương và niềm tin vô bờ bến của Đức Giáo Hoàng.

Cuộc đời của Đức Giáo Hoàng John Paul II, từ lúc nhiệm chức giáo hoàng cho đến lúc lìa đời, đã là những chuỗi biến cố lịch sử gắn liền với sứ mệnh của công lý và hoà bình cho nhân loại trong thế kỷ 20.

Lịch sử, vì Karol Josef Wojtyla, tức Đức Giáo Hoàng John Paul II, là vị giáo hoàng trẻ tuổi nhất (58 tuổi vào năm 1978) của thế kỷ 20, là vị giáo hoàng đầu tiên thuộc gốc Ba Lan, là vị hồng y ngoại quốc đầu tiên không phải là người Ý được bầu lên ngôi giáo hoàng sau hơn 450 năm.

Lịch sử, vì Đức Giáo Hoàng John Paul II sinh ra và lớn lên trong bối cảnh của chiến tranh thế giới thứ nhất vừa chấm dứt, chiến tranh thế giới thứ hai đang nhen nhúm hình thành. Là người Ba Lan, một quốc gia trực tiếp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tội ác của phát xít và cộng sản trong thế chiến thứ hai và trong thời chiến tranh lạnh, Ngài thấu hiểu hai chữ tự do và những giá trị của dân chủ, nhân quyền. Là người nhạy bén chính trị, Ngài không chọn con đường chính trị để giải phóng con người ra khoải gông cùm mà chọn con đường tôn giáo. Ước muốn của Ngài không chỉ là tự do cho người dân Ba Lan mà còn là công lý và hoà bình của nhân loại. Và đối với Ngài, chìa khoá của giá trị văn minh và nhân bản cho nhân loại là niềm tin vào sự thật, công bằng và lẽ phải.

Lịch sử, vì Đức Giáo Hoàng John Paul II là biểu tượng của sự hoà giải mà chưa có người nào trước Ngài đã làm được như vậy. Ngài đã nỗ lực hàn gắn những ngăn cách, hiềm khích hay hiểu lầm với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Ngài đã sẵn sàng lắng nghe và trao đổi với mọi tôn giáo bạn cũng như các lãnh đạo quốc gia thuộc mọi khuynh hướng trên thế giới. Ngài đã không ngần ngại chính thức xin lỗi về những lỗi lầm trước đây của Giáo Hội Công Giáo.

Lịch sử, vì Đức Giáo Hoàng John Paul II là vị giáo hoàng công du nhiều nhất từ trước đến nay, ngay cả lúc Ngài không được khoẻ, ngay cả khi tính mạng của Ngài có thể bị đe doạ bởi thành phần quá khích (từng bị ám sát suýt chết năm 1981). Ngài muốn được gần gũi với tín hữu ở mọi quốc gia, từ nước nghèo khó cho đến những quốc gia tân tiến.

Lịch sử, vì đứng trước thử thách của trào lưu thế giới trong việc tự do phá thai, tự do ngừa thai, nhu cầu tấn phong linh mục cho phụ nữ và đàn ông đã có vợ …, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã không chùn bước. Đúng sai thì còn tuỳ thuộc ở quan điểm của mỗi người, và hãy để lịch sử phán xét. Nhưng Ngài dứt khoát bảo vệ những thang giá trị và tín lý Công Giáo. Ngài luôn đề cao giá trị con người, nhân quyền và nhân phẩm, nhất là của trẻ em. Lịch sử, vì riêng đối với Việt Nam, Đức Giáo Hoàng John Paul II là người chủ tọa buổi lễ phong thánh cho 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, và bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Hồng Y (Công Lý và Hoà Bình) phục vụ bên cạnh Ngài tại Tòa Thánh La Mã. Ngài đã nhiều lần nhắc đến Việt Nam trong những bài giảng của mình.

Lịch sử, vì trên hết, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã nhiều lần mạnh mẽ kêu gọi tín hữu Ky Tô Giáo hãy giữ vững niềm tin, đừng sợ hãi, phải sống đúng đức tin của mình, phải biết thương yêu nhân loại. Tên tuổi của Ngài đã đi vào lịch sử vì sự lên tiếng bênh vực công lý và hoà bình của Ngài đã góp phần rất lớn đưa đến sự sụp đổ của chính quyền cộng sản tại Ba Lan và Đông Âu, kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Lúc còn sống, Josef Stalin coi thường Vatican bằng câu nói: “Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn?”. Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev, người thừa nhiệm sau này, khẳng định rằng gần như không có chuyện gì xảy ra ở Đông Âu giữa năm 1979 đến khi cộng sản sụp đổ năm 1991 có thể hiểu được nếu không liên hệ đến những tấm gương của vị giáo hoàng người Ba Lan. Giờ đây, sự nghiệp của Ngài là câu trả lời trực tiếp cho Josef Stalin, tuy hơi trễ. Ngày hôm nay, Giáo Hội Công Giáo đang đối diện với nhiều thử thách của một thế giới đã thay đổi nhiều so với 26 năm về trước. Sự đe doạ của khủng bố, sự chà đạp nhân phẩm, sự coi thường luân lý vẫn còn hiện hữu ở một số quốc gia như ở Trung Đông, Phi Châu và Á Châu. Sự sợ hãi không những không giảm mà còn gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới, mặc dầu Đức Giáo Hoàng John Paul II đã nhiều lần củng cố niềm tin của tín hữu bằng câu nói: “Đừng sợ hãi nữa!” (Do Not Be Afraid)

Nói cho cùng, khi Đức Chúa Giê Su bị đóng đinh, di sản của Ngài để lại cho nhân loại là tình thương bao la và lòng dũng cảm bất diệt. Cuộc đời của Đức Giáo Hoàng John Paul II cho thấy sự tiếp nối của truyền thống này. Và nếu con người học hỏi được gì từ cuộc đời hay bài giảng của Chuá Giê Su hay Đức Giáo Hoàng John Paul II, thì chắc chắn sẽ tìm được sự giải thoát cho chính mình và những người chung quanh.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Hình ảnh nhà sư Thích Minh Tuệ trên một trang mạng xã hội. Ảnh: Pháp Luật TP.HCM

Thật và giả từ bước chân thầy Minh Tuệ

Hình ảnh một hành giả mặc áo vá, đầu trần chân đất đi từ Nam ra Bắc thực hành phép tu hạnh đầu đà của Phật Giáo đang gây một trận động đất trong dư luận Việt Nam. Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngay lập tức phát ra thông báo khẳng định “người được mạng xã hội gọi là ‘Sư Thích Minh Tuệ’ không phải là tu sĩ Phật Giáo.” Oái oăm thay, lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của các vị chức sắc Phật Giáo quốc doanh lại góp phần phơi trần cái bản lai diện mục giả hiệu của chính họ.

Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ dược tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ hôm 15/5/2024

Hội nghị Thượng đỉnh Geneva về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16

Ngày 15/5/2024, tại Geneva, Thụy Sĩ đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16 (The 16th Annual Geneva Summit for Human Rights and Democracy).

Mục đích của Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ là đề cập đến tình trạng nhân quyền và đặc biệt là để hướng cộng đồng thế giới quan tâm đến một số trường hợp cần phải có sự can thiệp nhanh chóng để giảm đi những khổ nạn có thể xảy đến với các nạn nhân.

Hội nghị thượng đỉnh Geneva được tài trợ bởi một liên minh gồm 25 tổ chức phi chính phủ về nhân quyền từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đảng Việt Tân.

Từ trái sang phải: Trương Thị Mai - người vừa bị "cho thôi giữ các chức vụ," Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình và Đinh Thế Huynh. Ảnh chụp ngày 20/07/2016. Ảnh: AP - Hau Dinh

Việt Nam: Thêm một ủy viên Bộ Chính trị phải từ chức

Hôm qua, 16/05/2024, Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã bầu bổ sung 4 ủy viên sau khi một ủy viên khác là bà Trương Thị Mai phải từ chức và nghỉ việc.

Giữ chức thường trực Ban Bí thư và trưởng Ban Tổ chức Trung ương từ năm 2023, bà Trương Thị Mai như vậy là ủy viên thứ 3 trong Bộ Chính trị phải từ chức chỉ trong vòng hai tháng, sau Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong tháng Ba và Chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ trong tháng Tư.

Bà Trường Thị Mai vừa được cho thôi chức Thường trực Ban Bí thư, uỷ viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam hôm 16/5/2024. Ảnh: RFA

Đại tướng Lương Cường thay bà Trương Thị Mai làm thường trực Ban Bí thư

Đại tướng Lương Cường – Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 16/5 chính thức phân công thay cho bà Trương Thị Mai làm thường trực Ban Bí thư. 

Tại Hội nghị TƯ 9, Đại tướng Lương Cường ngồi ghế chủ tọa cùng với TBT Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Phạm Minh Chính. Đây là điều gây chú ý vì tại Hội nghị Trung ương 8 khai mạc hồi tháng 10/2023 có đến năm người, gồm: bà Trương Thị Mai, Võ Văn Thưởng, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Minh Chính và Vương Đình Huệ.