Tại sao vũ khí Trung Quốc bán không chạy?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Người ta cho rằng trong 20 năm trời xây dựng quân đội, vũ khí của Trung Quốc chế tạo có khá hơn trước nhiều. Điều này đúng phần nào đó. Các loại vũ khí như chiến đấu cơ J-10, tàu ngầm hạng-Yuan, xe tăng T-99 chắc chắn là tốt hơn máy bay J-7, tàu ngầm hạng-Ming, xe tăng T-59, những thứ này chỉ là đồ nhái của vũ khí Liên Sô của thập niên 50s. Vũ khí sau này của Trung Quốc đương nhiên là phải có khá hơn.

Cùng lúc đó, một số vũ khí của Trung Quốc có tính cạnh tranh cao với vũ khí của Tây Phương và Nga. Thí dụ như là các loại máy bay (drone) không người lái, hỏa tiễn chống chiến hạm, hỏa tiễn SAM (đất đối không) vác vai, máy bay huấn luyện loại nhẹ. Nhưng tất cả điều này dẫn đến một điểm quan trọng: nếu vũ khí Trung Quốc tốt như thế, tại sao ít có quốc gia nào muốn mua?

Trên giấy tờ thì Trung Quốc có vẻ là một quốc gia xuất khẩu vũ khí thành công. Năm vừa rồi Bắc Kinh bán gần 2 tỉ đô la vũ khí. Từ 2011 đến 2015 cho thấy Trung Quốc đứng hàng thứ ba xuất khẩu vũ khí trên thế giới, chiếm 6% tổng số lượng thị trường vũ khí, gấp đôi số lượng xuất khẩu trong khoảng 2006 đến 2010.

Trong những năm gần đây, Bắc Kinh có một số vụ buôn bán khá ấn tượng, bao gồm hợp đồng bán 8 tàu ngầm hạng-Yuan cho Pakistan và 3 chiếc cho Thái Lan. Trung Quốc cũng bán xe tăng cho Miến Điện, hỏa tiễn chống chiến hạm cho Indonesia, drone có vũ trang cho Iraq, Á-rập Saudi, United Arab Emirates, Nigeria, và Ai Cập.

Vẫn còn là nhà xuất khẩu cò con:

Một vài vụ buôn bán nổi bật kể trên là ngoại lệ đối với Trung Quốc. Trong thị trường buôn bán vũ khí trên thế giới Trung Quốc vẫn còn là một anh cò con. Thứ nhất, Trung Quốc bán đa số vũ khí của mình cho một vài quốc gia. Thí dụ như trong 5 năm qua, hơn hai phần ba (71%) của số lượng bán là cho ba quốc gia: Pakistan, Bangladesh, và Miến Điện. Số lượng còn lại bán cho một số quốc gia nghèo ở Châu Phi như Algeria, Nigeria, Sudan, và Tanzania.

JPEG - 84.7 kb
Xe tăng T-99. Ảnh: National Interest

Thứ nhì, phần lớn vũ khí bán ra thuộc loại xoàng: xe thiết giáp, súng đạn nhẹ, hoặc chiến đấu cơ nhái theo thiết kế cũ của Liên Sô. Một món hàng bán chạy nhất của Bắc Kinh là phản lực cơ K-8, một loại chiến đấu cơ đơn giản, tốc độ chậm, thích hợp cho các quốc gia đang phát triển không đủ tiền để mua chiến đấu cơ loại cao cấp. Nói chung, các loại vũ khí của Trung Quốc bán ra không phải loại làm thay đổi cục diện, tức là chúng không có tác động lớn đến quân bằng quyền lực trong vùng.

Vị trí dẫn đầu xuất khẩu vũ khí của Trung Quốc thật ra rất mỏng manh. Tuy nói là đứng hàng thứ ba trong thị trường thế giới, Trung Quốc thua xa Hoa Kỳ với 33% thị trường và Nga với 25%. Trung Quốc chỉ hơn chút xíu các quốc gia như Pháp (5.6%), Đức (4.7%), và Anh (4.5%)

Rào cản khiến không mở rộng buôn bán vũ khí:

Để duy trì một trong những vị trí dẫn đầu về xuất khẩu vũ khí, Trung Quốc cần phải có những món hàng hấp dẫn hơn. Cần các loại vũ khí tối tân như chiến đấu cơ với tốc độ siêu thanh, vũ khí có dẫn hướng chính xác, máy bay cảnh báo sớm, hệ thống phòng không tầm xa. Đặc biệt, Bắc Kinh chưa bán được nhiều loại chiến đấu cơ tối tân nhất, loại J-10 và JF-17. Loại JF-17 cho đến nay chỉ có Pakistan mua – với lý do đơn giản là Pakistan sản xuất chung với Trung Quốc. Ngay cả không lực Trung Quốc còn chưa mua JF-17.

Ít có quốc gia nào khác chịu mua các hệ thống vũ khí khác của Trung Quốc, hoặc nếu có đi nữa thì họ tháo gỡ bộ phận Trung Quốc sản xuất để thay bằng thiết bị của Tây phương. Lý do là công nghiệp quốc phòng Trung Quốc còn rất yếu về các lãnh vực công nghệ quan trọng như động cơ phản lực và điện tử. Đơn cử thí dụ, một bài báo năm 2013 của New York Times tiết lộ là Algeria mua các tàu hộ tống nhỏ của Trung Quốc nhưng sau đó thế vào với các giàn rađa và thiết bị thông tin của Pháp. Máy bay JF-17 Pakistan sử dụng thì dùng động cơ phản lực của Nga, trong khi đó Thái Lan nhờ công ty Saab của Thụy Điển nâng cấp các khu trục hạm Trung Quốc sản xuất.

Trung Quốc cũng cần mở rộng nhóm khách hàng. Hiện thời chỉ bán vũ khí cho những quốc gia hoặc quá nghèo để mua vũ khí của Tây phương hoặc Nga, hoặc đang bị cấm vận vũ khí (như Venezuela). Ít có quốc gia giàu nào (như các nước sản xuất dầu hỏa ở vùng Vịnh, Trung Đông) chú ý đến vũ khí Trung Quốc. Iran từng là khách hàng sộp của Bắc Kinh nhiều năm, nhưng trong những năm qua chưa mua gì thêm. Tương tự vậy, Trung Quốc không chào hàng thêm được ai ở Nam Mỹ, Đông Âu, hay Trung Á.

Do đó trở lại câu hỏi nguyên thủy: nếu các hệ thống vũ khí Trung Quốc tốt như thế thì tại sao ít ai thèm muốn? Tại sao số khách hàng quá nhỏ và chỉ chú trọng vào một số ít hệ thống vũ khí? Từ đó người ta có thể luận ra là đa số vũ khí của Trung Quốc, tuy có tốt hơn xưa, vẫn thuộc loại xoàng xoàng, và các hệ thống vũ khí của Tây phương, Nga, Do Thái vẫn vượt xa hẵn vũ khí Trung Quốc.

Richard A. Bitzinger là nghiên cứu gia cao cấp và điều hợp viên của Chương Trình Biến Đổi Quân Sự tại Học viện Nghiên Cứu Quốc Tế S. Rajaratnam, Đại Học Công Nghệ Nanyang, Singapore.

Hoàng Thuyên lược dịch theo National Interest

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Lời kêu gọi tham dự biểu tình UPR 2024 diễn ra vào ngày 7/5 trước trụ sở Liên Hiệp Quốc

Ngày 7 tháng 5 này, nhà nước CSVN sẽ bị kiểm điểm trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Council – UNHRC) về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Đây là dịp để chúng ta chỉ rõ sự gian trá của CSVN trước diễn đàn quốc tế.

Chúng tôi kêu gọi đồng bào tham dự buổi biểu tình diễn ra ngày 7/5/2024, trước Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève, Thụy Sĩ, nhằm lên án những vi phạm nhân quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đảng

Để chống lại sự lăng loàn, độc đoán của đảng, ở những nước đa đảng (như Mỹ, Pháp, Hàn, Nhật, Sing chẳng hạn), họ cấm tiệt việc sử dụng ngân sách phục vụ cho riêng đảng nào đó. Tất cả đều phải tự lo, kể cả chi phí cho mọi hoạt động lớn nhỏ, từ chiếc ghế ngồi họp tới cái trụ sở mà đảng sử dụng. Tham lậm vào tiền thuế của dân, nó sẽ tự kết liễu sự nghiệp bởi không có dân nào bầu cho thứ đảng bòn rút mồ hôi nước mắt mình làm lãnh đạo mình.

Ảnh chụp màn hình VOA

Nhóm trí thức Việt Nam đề nghị lãnh đạo chớ ‘nói suông,’ nên chân thành hoà giải

GS. TS. Nguyễn Đình Cống, người đã công khai từ bỏ đảng Cộng sản vào năm 2016 và là một thành viên ký tên trong bản kiến nghị, nói với VOA:

“Thực ra, đây là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhân dân Việt Nam hy sinh xương máu của cả hai bên để mang lại một chiến thắng cho đảng Cộng sản. Còn đối với dân tộc thì chẳng được gì cả. Nó chỉ mang lại được sự thống nhất về mặt lãnh thổ thôi. Còn sau chiến thắng ấy, không giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc. Đảng thì được. Đảng được vì đạt được chính quyền toàn quốc. Còn dân tộc thì việc hoà giải dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được.”

Ngày 30 Tháng Tư, người Việt ở hải ngoại gọi là ngày mất nước, ngày quốc hận. Ảnh minh họa: David McNew/Getty Images

Không cần hòa giải, cần đấu tranh!

Bốn mươi chín năm đã đủ lâu để những người có suy nghĩ đều nhận ra sự thật không ai là “bên thắng cuộc,” cả dân tộc là nạn nhân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Gần nửa triệu thanh niên miền Bắc, 280.000 thanh niên miền Nam bỏ mạng, 2 triệu thường dân vô tội chết trong binh lửa – đó là cái giá máu mà dân tộc này đã phải trả cho cái gọi là công cuộc “giải phóng miền Nam.”