Quan hệ Mỹ – Việt và Trung – Việt quanh vụ Biển Đông

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Ngày 17 tháng 6 tại Hoa Thịnh Đốn, một Hội nghị thường niên “đối thoại về chính trị – an ninh – quốc phòng” giữa Cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ đã tập trung bàn thảo về những diễn biến mới nhất trên Biển Đông. Tham dự hội nghị thường niên lần thứ tư này, đại diện phía CSVN là Thứ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh; đại diện phía Hoa Kỳ là Trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề chính trị và quân sự Andrew Shapiro. Sau Hội nghị, hai bên đã có một thông cáo chung loan tải chính thức trên trang nhà của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, với một số nội dung đáng chú ý như sau:

Thứ nhất là Hoa Kỳ và CSVN ghi nhận rằng các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ và hàng hải cần phải tuân thủ các nguyên tắc đã được luật pháp quốc tế công nhân, trong đó có Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Hai nước tái khẳng định tầm quan trọng của Tuyên Bố Chung về cách hành xử của các bên ở Biển Đông ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 và khuyến khích các bên đạt thỏa thuận về Bộ quy tắc ứng xử.

Thứ hai là Hoa Kỳ và CSVN đồng thuận rằng tất cả các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được giải quyết thông qua tiến trình hợp tác ngoại giao, không sử dụng vũ lực. Việc duy trì hòa bình, ổn định, an toàn và tự do lưu thông hàng hải tại Biển Đông là lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.

Bản Thông Cáo Chung Việt – Mỹ về Biển Đông không có gì mới, chỉ lập lại những gì mà Hoa Kỳ và CSVN thường hay đề cập tới trong hơn 1 năm qua là các tranh chấp trên Biển Đông phải giải quyết theo nguyên tắc đa phương, dựa trên Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc.

Đúng một tuần sau, ngày 25 tháng 6 tại Bắc Kinh, một Hội nghị đột xuất về Biển Đông đã diễn ra giữa Bắc Kinh và Hà Nội với Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng ngoại giao CSVN và Đới Bình Quốc, Ủy viên quốc vụ viện đặc trách ngoại giao của Trung Quốc. Sau hội nghị, hai bên Trung Quốc và CSVN đã công bố một thông cáo chung vào ngày 26 tháng 6, với nội dung mập mờ, khó hiểu như sau:

Thứ nhất là Trung Quốc và CSVN ghi nhận rằng trong thời gian vừa qua, quan hệ Việt – Trung phát triển lành mạnh, ổn định, đáp ứng nguyện vọng chung và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt – Trung, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực.

Thứ hai là Trung Quốc và CSVN khẳng định, cần tích cực thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, giải quyết hòa bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Cả hai nước chống lại sự can thiệp của các lực lượng bên ngoài vào các vấn đề Biển Đông.

Thứ ba là Trung Quốc và CSVN tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước.

Bản Thông Cáo Báo Chí Việt – Trung về Biển Đông không phản ảnh những gì mà ông Nguyễn Chí Vịnh hay ông Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố cách đây vài tháng khi xảy ra vụ tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải ở miền Trung, cắt cáp tàu Bình Minh 02 và Viking 02 của Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Thậm chí bản Thông cáo báo chí chứa đựng rất nhiều điều khó hiểu và thiếu trung thực khi cho rằng quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đang phát triển “tốt đẹp” và đáp ứng nguyện vọng chung của nhân dân hai nước. Qua bản thông cáo Việt – Trung ngày 26 tháng 6, người ta thấy rằng:

Thứ nhất, Cộng sản Việt Nam đã không xác định lập trường “đa phương” như trong Thông cáo chung với Hoa Kỳ về Biển Đông. CSVN đã bị Trung Quốc khuyến dụ qua cái gọi là “đàm phán và hiệp thương hữu nghị” để không nhắc gì đến Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Đây là thủ đoạn của Bắc Kinh để ngăn chận CSVN tham dự Hội nghị về Biển Đông do Hoa Kỳ, Nhật Bản và khối ASEAN đề xướng trong thời gian tới.

Thứ hai, Cộng Sản Việt Nam đã cố tình tránh né không dám đề cập về những phản ứng chống đối của người dân Việt Nam về các hành động xâm lấn của Trung Quốc. Điều này cho thấy là Hà Nội chưa ra tay đàn áp và dẹp các cuộc biểu tình vì Bắc Kinh chưa ra lệnh và chưa muốn Hoa Kỳ khai thác lôi kéo thành phần chống Trung Quốc trong nội bộ CSVN ngả về phía Hoa Kỳ.

Thứ ba, Cộng sản Việt Nam vẫn coi quan hệ giữa họ với Trung Quốc là quan trọng so với Hoa Kỳ. Ngoài yếu tố coi Hoa Kỳ là quốc gia nguy hiểm, tạo ra diễn biến hòa bình để thay đổi chế độ Cộng sản tại Việt Nam, Hà Nội vẫn còn mang ảo tưởng coi Bắc Kinh là lãnh đạo của khối xã hội chủ nghĩa và là chỗ dựa của chế độ.

Từ những thái độ phản ảnh qua hai bản Thông Cáo Việt – Trung và Việt – Mỹ về Biển Đông, rõ ràng là Hà Nội chọn đứng về phía Bắc Kinh chứ không dám đứng về phía dân tộc Việt Nam hay về phía quốc tế. Nói cách khác, đừng nhầm lẫn những phát biểu có vẻ chống Trung Quốc hay đồng tình với Hoa Kỳ về vấn đề quốc tế hóa Biển Đông rằng có hai phe thân Bắc Kinh và thân Hoa Thịnh Đốn trong hàng ngũ lãnh đạo Hà Nội. Tất cả họ chỉ là một đám “cắc kè” bị Trung Quốc nuôi dưỡng và sai khiến, xuất hiện dưới những màu sắc khác nhau để đánh lừa dư luận mà thôi. Ngoài ra, qua nội dung của bản Thông cáo báo chí Việt – Trung, Bộ chính trị Cộng sản Việt Nam đã cho thấy rõ là “họ thà mất nước chứ không để mất đảng”.

Trung Điền
Ngày 21/7/2011.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Tô Lâm trong buổi tiếp đón Tổng thống Nga Vladimir Putin, tại phủ chủ tịch ở Hà Nội, ngày 20/06/2024. Ảnh: Reuters - Minh Hoang

Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam

Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là “bước đệm” cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam – tổng bí thư và chủ tịch nước – là “một thắng lợi hoàn toàn” của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…