Thể chế chính trị nào cho nước Việt Nam Mới

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

I- DẪN NHẬP

Nhìn vào cơ chế chính trị và cách thức vận hành của một chính quyền, người ta sẽ biết được dân trí của nước đó ra sao, vì:

– Cơ cấu chính trị của một nước biểu hiện cung cách sống và ý thức tham gia chính trị của người dân. Nó là tấm gương phản chiếu trình độ giáo dục và tỷ lệ người có học và có kiến thức sống trong xã hội đó như thế nào.

– Cách vận hành của guồng máy công quyền biểu hiện sự tham gia và kiểm soát nhiều hay ít của người dân vào các hoạt động của những cơ cấu hành chánh từ trung ương đến địa phương. Mức độ tham gia và kiểm soát này hoàn toàn thay đổi tuỳ thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết và kinh nghiệm tham gia sinh hoạt giòng chính (mainstream) của người dân.

Chính vì vậy mà việc chọn lựa thể chế chính trị của một nước không đơn thuần là công việc hành chánh hay phó mặc cho một số nhà làm luật, mà phải là sự đóng góp ý kiến của toàn dân qua hình thức trưng cầu dân ý bằng lá phiếu. Hơn thế nữa, cơ chế chính trị còn là nền tảng pháp lý cho phép những cơ quan có thẩm quyền huy động khối đông đảo quần chúng tham gia hỗ trợ vào những kế hoạch chung của đất nước, cho nên việc tổ chức bộ máy nhà nước phải đáp ứng nhu cầu của quốc gia và nhất là để phục vụ cho người dân chứ không phải để phục vụ cho bất kỳ cá nhân hay đảng phái nào.

Ngày nay khi nói đến cơ cấu chính trị của một quốc gia, người ta dựa theo nguyên tắc phân quyền, đặc biệt là dựa theo mối quan hệ giữa hai bộ phận Lập pháp và Hành pháp để thiết lập ra những mô hình của cơ cấu cai trị, còn gọi là thể chế chính trị. Nghĩa là các quốc gia thường dựa vào mối liên hệ giữa Lập Pháp (cơ quan làm Luật) và Hành Pháp (cơ quan thi hành luật) để vạch ra một nền tảng pháp lý chung cho quốc gia, gọi là mô hình chính trị.

Hiện nay trên thế giới, tuy có rất nhiều mô hình, nhưng tựu trung đều triển khai từ ba loại thể chế: chế độ nghị viện nội các; chế độ tổng thống và chế độ đảng trị. Đây là ba thể chế được hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng với một vài pha lẫn nét đặc thù của mỗi địa phương.

II- ĐẶC TÍNH CHUNG CỦA BA THỂ CHẾ

1- Nghị Viện Chế:

JPEG - 13.6 kb
Hạ Viện Anh Quốc.

Chế độ nghị viện hay còn gọi là “nội các chế”, phát xuất từ Anh quốc. Căn bản của thể chế này, người ta dựa trên ưu thế của Lập pháp để tổ chức guồng máy công quyền. Cụ thể là qua cuộc bầu cử Quốc hội, đảng phái hay liên minh chính trị nào chiếm đa số sẽ đương nhiên tổ chức nội các, Thủ tướng và đại diện các bộ sẽ được bầu lên từ đa số quá bán của những dân biểu thuộc đảng hay liên minh chính trị chiếm ưu thế trong Quốc hội. Nói cách khác, người đứng đầu bộ máy hành chánh do Quốc hội bầu ra. Người ta gọi đây là Nghị viện nội các chế.

Chế độ này được chính thức công nhận ở Anh dưới thời Thủ tướng Robert Walpole (1676 – 1745). Ông Walpole ra nắm chính quyền do sự ủng hộ của phe chiếm đa số trong Quốc hội. Khi đa số trong quốc hội không còn tín nhiệm nữa, dù là có nhà vua ủng hộ, Thủ tướng và toàn thể nội các phải từ chức. Từ đó, Thủ tướng ở Anh chọn theo sự tín nhiệm của phe đa số ở Hạ viện và những người đứng đầu các cơ quan hành pháp, phải là dân biểu quốc hội. Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội và khi hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm nội các, có hai trường hợp xảy ra: Một là Thủ tướng và Nội các phải tổng từ chức. Hai là Thủ tướng giải tán quốc hội, trả lại quyền tín nhiệm trực tiếp của cử tri qua cuộc tổng tuyển cử.

Đối với chế độ này, nội các có thể đề nghị những dự án luật cho quốc hội, tuy nhiên trong nhiều trường hợp, quốc hội phần lớn đã biểu quyết và thông qua những dự án luật mà nội các mong muốn. Ngược lại, quốc hội cũng kỳ vọng rằng nội các phải tự chế để chấp hành những dự luật đã biểu quyết ở quốc hội. Có thể nói là những luật lệ thông qua ở quốc hội trong nội các chế, hoàn toàn bị “khống chế” bởi phe đa số ở quốc nội và nó biểu hiện gián tiếp các ước muốn của Thủ tướng và nội các. Vì thế mà khi Thủ tướng và nội các đưa ra một dự luật – tuy bị dân chúng bất mãn chống đối – nó vẫn có thể thông qua ở quốc hội vì có đa số dân biểu của phe cầm quyền tán thành. Người dân chỉ có thể loại bỏ đạo luật này cũng như truất phế Thủ tướng và nội các trong một cuộc bầu cử tới với việc bỏ phiếu chọn một đa số khác.

Hiện nay trên thế giới có một số quốc gia sau đây đã áp dụng “nội các chế” như Nhật Bản, Thái Lan, Anh Quốc, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan. Tại những quốc gia này, phần lớn những đảng kỳ cựu và có thế lực chính trị lâu đời thay phiên nhau cầm quyền sau mỗi chu kỳ biến động hay sau mỗi giai đoạn thực thi một số chính sách mà người dân thấy quá nhàm chán muốn thay đổi. Vì thế ở thể chế này, việc chấp hành và quyết định chính sách có sự phân minh rõ ràng. Tuy nhiên, người ta dễ có xu hướng để cho một đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội trở thành cầm quyền chuyên chế trong nhiều năm nên có thể gây ra những bất lợi cho những đảng phái nhỏ.

2- Tổng Thống Chế:

JPEG - 10.6 kb
Tổng Thống Hoa Kỳ George W Bush (thứ hai từ phải) và các thành viên nội các.

Khác với chế độ Nghị viện, người đứng đầu bộ máy hành chánh do người dân trực tiếp bầu ra trong các cuộc bầu cử, người ta gọi là Tổng thống chế. Điển hình của Tổng thống chế là chế độ chính trị của Hoa Kỳ. Tổng thống chế ở Mỹ có sự độc lập hoàn toàn giữa bộ phận tư pháp và hành pháp. Tổng thống không có một trách nhiệm gì trước quốc hội mà chỉ có trách nhiệm trực tiếp trước cử tri toàn quốc. Do đó, Tổng thống không có quyền giải tán hay triệu tập quốc hội, dù Tổng Thống và lưỡng viện quốc hội có khác nhau về quan điểm hay đường lối chính sách của quốc gia cũng như Quốc hội không có quyền truất phế Tổng thống.

Trong Tổng thống chế, người đứng đầu bộ máy hành pháp là Tổng thống và các bộ trưởng không có thể trực tiếp đề nghị dự án luật cho lưỡng viện Quốc hội mà chỉ có thể gửi một số ý kiến qua một bài phát biểu đặc biệt ở Quốc hội, về một số luật lệ để yêu cầu quốc hội soạn thảo. Khi quốc hội phải biểu quyết ngân sách hay những đạo luật mà phía Tổng thống không vừa ý, Tổng Thống có quyền phủ quyết. Tuy nhiên, để thắng quyền phủ quyết của Tổng thống, dự luật đưa ra phải có trên 2/3 số phiếu biểu quyết của lưỡng viện Quốc hội và khi đó dự luật trở thành luật, Tổng thống phải thi hành.

Những người đứng đầu các Bộ trong cơ quan hành pháp do Tổng thống bổ nhiệm, chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng Thống và không liên hệ gì đến Quốc hội. Trong Tổng Thống chế, người ta cấm các Bộ trưởng kiêm nhiệm chức vụ đại biểu quốc hội. Không được tham dự các khóa họp của quốc hội ngoại trừ khi nào được quốc hội mời ra điều trần. Địa vị chính trị của các vị Bộ trưởng, Tổng trưởng trong nội các Tổng thống chế không có nhiều ưu thế như những vị Thượng Nghị Sĩ, Thống đốc tiểu bang. Vì thế mà vị trí của các vị Bộ trưởng, Tổng trưởng chỉ là những chuyên viên trong bộ máy hành chánh quốc gia mà thôi.

Trong Tổng Thống Chế, vì áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền cho nên dù là đa số hay thiểu số vẫn có thể ngăn chận được tình trạng chuyên chế của một người hay một nhóm người. Tuy nhiên, vì áp dụng triệt để nguyên tắc “kiểm soát và cân bằng (check and balance) để soạn thảo, quyết định và chấp hành những văn kiện pháp luật cho nên đôi lúc đã có nhiều chỗ không minh định rõ ràng trách nhiệm của mỗi bên. Trong Tổng thống chế, khi một đảng vừa chiếm ghế Tổng thống, vừa chiếm ưu thế ở lưỡng viện quốc thì sẽ dễ đi đến chỗ chuyên chế trong chính sách vì tiếng nói của nhóm đối lập bị dập tắt. Cho nên người ta không muốn điều này xảy ra vì làm mất sức cạnh tranh và tham gia vào sinh hoạt giòng chính của người dân.

Hiện nay trên thế giới có một số quốc gia áp dụng Tổng thống Chế như Hoa Kỳ, Nam Hàn, Pháp, Mễ Tây Cơ, Ba Tây… Tuy nhiên mỗi nước có những pha trộn khác nhau về cách tổ chức và vận hành bộ máy hành pháp. Ví dụ Tổng thống ở Hoa Kỳ, Mễ Tây Cơ, Ba Tây có uy quyền cao trong bộ máy hành pháp, trong khi Tổng thống tại Pháp thì cho đến thời đệ tứ Cộng hòa chỉ có tính nghi lễ, nhưng từ thời đệ Ngũ Cộng hòa trở đi mới có nhiều quyền hạn hơn. Ngoài ra, có một vài quốc gia đã áp dụng cả hai thể chế gồm “nội các” và “tổng thống”, nhưng trong trường hợp này cơ cấu cai trị nằm trong tay nghị viện nội các chế, quyền hạn của tổng thống rất giới hạn. Ví dụ như Tổng thống ở Đức, Ý chỉ đóng vai trò nghi lễ, ngoại giao.

3- Đảng Trị Chế:

JPEG - 13.6 kb
Quốc Hội Trung Quốc (chế độ độc đảng Cộng Sản).

Khác với chế độ Nghị Viện và Tổng Thống, Chế độ Đảng Trị là chế độ mà ở đó, tất cả mọi quyền lực của quốc gia nằm trong tay sinh sát của một đảng, do một thiểu số lãnh đạo điều động ở bên trên. Trong chế độ này, sự phân quyền giữa hành pháp, tư pháp và lập pháp chỉ là hình thức, tất cả mọi thứ đều được quyết định và chỉ thị từ đảng cầm quyền. Nói cách khác, Đảng trị chế là mọi quyết định về hành chánh, lập pháp và tư pháp đều nằm trong tay của một thiểu số lãnh đạo của một đảng cầm quyền mà đảng này hoàn toàn không do dân bầu ra; nó giành quyền lực cai trị sau một cuộc chiến hay từ một cuộc đảo chánh cướp chính quyền.

Trong chế độ Đảng Trị có hai cơ cấu chìm và nổi. Cơ cấu nổi mang tính “trang trí”, là những bộ máy được thiết lập giống như các quốc gia dân chủ gồm có chính phủ (hội đồng nội các, hội đồng nhà nước), quốc hội, tòa án (việm kiểm sát nhân dân và tòa án nhân dân). Những người ra nắm giữ các trách vụ này đều được tuyển chọn bởi một cuộc bầu cử theo đúng tinh thần “đảng cử dân bầu”, vì chỉ có đảng viên mới được đưa vào những cơ chế này. Sự vận hành và hoạt động của các bộ phận nổi này nằm dưới sự điều động của các đảng uỷ các cấp. Cơ cấu chìm chính là những cơ sở đảng từ Trung ương đến địa phương, lãnh đạo và quyết định toàn bộ sinh hoạt của quốc gia và của người dân một cách tuyệt đối.

Vì đảng vừa giữ nhiệm vụ lãnh đạo và cai trị quốc gia nên sinh hoạt xã hội dựa theo sự vận hành của đảng. Nghĩa là đảng quyết định ra sao hay thay đổi như thế nào thì sinh hoạt xã hội biến chuyển theo. Nếu có ai đó hay tập thể nào chống đối thì liền bị khống chế và tiêu diệt. Ví dụ, Trung ương đảng quyết định rằng toàn quốc sẽ tiến hành công nghiệp hóa, không chú trọng vào nông nghiệp thì toàn thể xã hội phải học tập và dốc toàn lực thực thi công nghiệp hóa. Để làm công việc này đảng tự động biến các Nghị Quyết này thành những văn kiện luật thông qua ở Quốc hội cho “hợp pháp” rồi mang ra hô hào thi hành. Vì nặng phần tuyên truyền để kích động quần chúng, các Nghị Quyết đều mang tính chính trị, phô diễn bề nổi không có thật nên những chính sách đưa ra hoàn toàn là láo khoét và cường điệu.

Một đặc điểm khác của chế độ Đảng trị dù cộng sản hay không cộng sản, đều dựa vào công an và quân đội. Tức đảng có toàn quyền kiểm soát và sử dụng bộ máy công an và quân đội để phục vụ cho các mục tiêu đàn áp và khống chế của đảng. Vì cai trị dựa theo mệnh lệnh của một thiểu số lãnh đạo nên đảng nào cũng phải tổ chức bộ phận cốt lõi có khả năng dập tắt các tiếng nói đối lập. Hiện nay trên thế giới chỉ còn bốn nước theo chế độ Đảng Trị độc tài cộng sản, đó là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Ngoài ra, có một số nước tuy không theo hình thái độc tài Cộng sản nhưng gần với hình thức Đảng trị độc tài là Iran, Nam Dương (trước khi ông Suharto từ chức), Cộng hòa Tân Nam Tư… đã gieo rắc không biết bao nhiêu là nỗi kinh hoàng cho người dân. Chế độ Đảng trị trên thực tế chỉ là nhằm phục vụ quyền lợi cho một thiểu say mê quyền lực mà thôi.

III- THỂ CHẾ NÀO CHO VIỆT NAM:

Việt Nam hiện có vào khoảng 80 triệu dân, trong đó có 52 triệu người ở lứa tuổi trên 20. Đây là khối nhân lực rất trẻ so với tình trạng lão hóa của các quốc gia láng giềng và trong vùng Á Châu. Ngoài ra, hiện chỉ có 23% dân chúng sống ở thành phố trong khi có đến 72% sống ở nông thôn và khoảng 5% sống ở miền núi. Trình độ dân trí rất thấp và nếu tính theo “Chỉ Số Phát Triển Con Người” (HDI) của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam xếp vào hàng 114 trên 170 quốc gia và khu vực, tức ở vào bảng của những nước “chậm tiến” trên thế giới.

Sau khi chế độ đảng trị Cộng sản sụp đổ, Việt Nam sẽ phải chọn lựa một thể chế chính trị phù hợp để đáp ứng ba nhu cầu sau đây:

Một là bảo đảm được sự độc lập và phân quyền rõ rệt giữa ba ngành Lập Pháp – Hành Pháp – Tư Pháp. Không tạo điều kiện cho bất cứ một đảng phái nào có thể khống chế nền chính trị quốc gia; nhưng thể chế đó cũng không tạo ra tình trạng hỗn loạn chính trị do sự tồn tại quá nhiều đảng phái trong cơ chế lập pháp.

Hai là tổ chức được một chính quyền mạnh có khả năng lấy những quyết định cần thiết để giải quyết những vấn đề khẩn cấp của quốc gia. Cơ chế chính trị phải phân biệt rõ ràng giữa người phụ trách và bộ máy hành chánh. Bộ máy hành chánh phải được tôn trọng và bảo vệ; nhưng người ở các trách vụ này từ trung ương đến địa phương – nếu vi phạm những quy định luật pháp – sẽ phải chịu chế tài đúng mức, chứ không thể tự đồng hóa với cơ chế để ở trên luật pháp.

Ba là huy động được sự tham gia và đóng góp ý kiến của người dân vào những sinh hoạt chính trị quốc gia, bằng cách khuyến khích và hỗ trợ sự xuất hiện của những đoàn thể chính trị quần chúng. Chính sự hoạt động của các đoàn thể quần chúng sẽ giúp nâng cao dân trí và khuyến khích người dân trực tiếp tham gia sinh hoạt “chính giòng”. Nói cách khác, sinh hoạt chính trị của nước Việt Nam mới phải chuyển từ mô hình “đại biểu” (tức uỷ thác hoàn toàn cho người đại diện dân) sang mô hình “tham gia” (tức các đoàn thể quần chúng cùng có trách nhiệm bàn thảo và góp ý về những chính sách chung của quốc gia).

Dựa theo ba nhu cầu nói trên và căn cứ vào hiện tình đất nước sau khi chế độ độc tài Cộng sản Việt Nam sụp đổ, mô hình chính trị phù hợp cho Việt Nam có thể nên là Tổng thống chế. Tại sao?

Thứ nhất là Việt Nam cần phải phân biệt rõ rệt quyền hạn và trách nhiệm của ba cơ quan Lập Pháp (quốc hội); Hành Pháp (chính phủ) và Tư Pháp (Tòa án) ngay từ đầu, để xây dựng một nền tảng pháp trị có đặc tính cân bằng và kiểm soát lẫn nhau. Muốn như vậy, Tổng thống chế là cơ chế dễ tạo hình ảnh phân biệt rõ rệt. Hơn thế nữa, nhiều người Việt Nam cũng đã ít nhiều kinh nghiệm qua hai thời kỳ đệ nhất và đệ nhị cộng hòa ở miền Nam trước năm 1975, nên thích ứng dễ dàng. Ngoài ra, Tổng thống chế vạch lằn ranh trách nhiệm rõ ràng giữa ba cơ chế mà không một phía nào có thể đổ lỗi một khi có khủng hoảng xảy ra, nhất là trong bối cảnh phôi thai xây dựng nền dân chủ lập hiến.

Thứ hai, trong giai đoạn phôi thai của nền dân chủ hậu cộng sản, sẽ có rất đông đảng phái, tổ chức chính trị xuất hiện để ra ứng cử tham gia vào cơ chế lập pháp. Nếu áp dụng nội các chế thì trong bối cảnh đó sẽ khó có đảng phái nào chiếm ưu thế để ra cầm quyền mà phải cần một liên minh chính trị. Liên minh chính trị sẽ không làm cho chính phủ mạnh vì phải thoả hiệp nhiều xu hướng, hậu quả là chính quyền sẽ không thể nào có những biện pháp mạnh và thích ứng để đưa đất nước vượt ra khỏi những khủng hoảng một cách nhanh chóng. Do đó, Tổng thống chế giúp cho chính quyền tạo được tư thế mạnh vì Tổng thống do quần chúng bầu ra trong cuộc tổng tuyển cử chứ không do quốc hội bầu lên, nên không bị những hăm dọa truất phế từ quốc hội mỗi khi có những xung đột ý kiến hay quan điểm giữa hành pháp và lập pháp.

Thứ ba, tạo điều kiện cho những đảng phái mạnh có điều kiện tiến hành những chính sách canh tân đất nước theo những chủ trương đã được toàn dân tín nhiệm trực tiếp qua lá phiếu. Thông thường trong Tổng thống chế, người dân vừa tín nhiệm ứng cử viên tổng thống sáng giá nhưng cũng đồng thời tín nhiệm cả những chính sách của đảng hay của phong trào đã đứng sau người ứng viên tổng thống ra tranh cử. Vì thế sự tín nhiệm của người dân vào một ứng viên Tổng thống cũng đồng thời gián tiếp biểu hiện sự ủng hộ những chính sách canh tân quốc gia. Trong khi đó, nội các chế trong bối cảnh phôi thai của chế độ dân chủ hậu cộng sản, khó có đảng nào chiếm ưu thế mà phải tạo thế hợp tác, cho nên chính sách canh tân có thể bị của mỗi đảng bị thay đổi hay biến dạng khi đi vào thế liên minh.

Từ một vài nhận định chủ quan của người viết, Tổng thống chế là thể chế chính trị phù hợp cho Việt Nam trong giai đoạn hậu cộng sản và đó cũng chính là mục tiêu cần sự quan tâm của những người có tâm huyết vì dân tộc, để tạo dựng được một chính quyền mạnh và huy động được sự ủng hộ của mọi giới.

IV- KẾT LUẬN

Giải quyết vấn đề chế độ Cộng sản Việt Nam chỉ còn là thời gian. Đã đến lúc chúng ta cần quan tâm suy nghĩ đến một thể chế chính trị thích hợp cho Việt Nam. Việc chọn thể chế nào là quyền của toàn dân nhưng việc nghiên cứu và đề nghị mô hình chính trị, là nhiệm vụ của chúng ta – những người đang giữ nhiệm vụ điều hướng công cuộc dân chủ hóa hiện nay. Ngoại trừ Đảng Trị Chế đang được một vài quốc gia cộng sản áp dụng, đa số các nước còn lại hoặc chọn nội các chế hoặc chọn Tổng thống chế, với hai xu hướng nổi bậc là theo mô hình Anh (nội các) hoặc theo mô hình Hoa Kỳ (tổng thống). Đối với nước ta, mô hình nào là thích hợp? Rất mong ý kiến của quý vị thức giả.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.

Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo công bố báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ 4 (UPR), ngày 15/4/2024. Ảnh chụp Báo Tin Tức

Việt Nam bác bỏ các báo cáo ‘thiếu khách quan’ về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc

Trong báo cáo đề ngày 27/2/2024 được công bố trên trang web của LHQ, nhóm chuyên trách Việt Nam của LHQ cho hay ít nhất 150 nhà báo độc lập, những người bảo vệ nhân quyền, và các nhà hoạt động dân chủ, đất đai và tôn giáo còn bị giam cầm chỉ vì thực hiện các quyền cơ bản của họ một cách ôn hòa trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường, quyền của người thiểu số và phát triển dân chủ.