Việt Nam: Bước Ra Thế Giới Cạnh Tranh

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Bài viết Việt Nam: Bước ra Thế Giới Cạnh Tranh là một tiểu luận nằm trong tập sách “Việt Nam Nhìn Từ Bên Trong và Bên Ngoài” của hai tác giả Tạ Chí Đại Trường và Nguyễn Xuân Nghĩa do nhà xuất bản Văn Lang ấn hành năm 1994. Những cái nhìn của tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa, tuy cách nay đã 10 năm, nhưng vẫn còn có nhiều giá trị soi sáng cho viễn cảnh thay đổi của Việt Nam trong thế kỷ 21.

Quốc gia trước ngã ba đường

Vào cuối thế kỷ này, dân ta phải đối phó với hai vấn đề có quan hệ khắng khít là tình trạng nghèo khốn và lạc hậu của đất nước, thực ra đã triền miên kéo dài từ thế kỷ trước. Có lẽ đã trăm năm rồi, đây là lần đầu mà dân ta độc lập giải quyết lấy bài toán của mình chứ chẳng còn do một thế lực quốc tế nào sai khiến hoặc dìu dắt. Trong phạm vi của một tài liệu nhỏ, và do khả năng giới hạn của người viết, người ta sẽ khó tìm thấy ở đây một kế hoạch hoặc một phương hướng giải quyết những nan đề quả thực là lớn lao nói trên. Nhưng, nhìn vào hiện tình đất nước và đối chiếu với những đổi thay dồn dập của bối cảnh thế giới, người viết không thể không nêu lên một vài ý thô thiển về những điều cần thiết và mong ước cho Việt Nam.

Trước khi tìm hiểu về những điều trên – chiều hướng hiện đại hóa đất nước để phát triển kinh tế và xây dựng một xã hội hòa đồng ở bên trong, có khả năng đối ngoại vững mạnh bên ngoài – ta cần tổng kết một vài nhận định về bối cảnh chung của thế giới. Dĩ nhiên, việc lượng định về những nan đề của đất nước cũng cần thiết khi chúng ta muốn tìm một vài dấu mốc dẫn ta đi tới.

Trong giai đọan vừa qua, những vấn đề của đất nước đã được trình bày phân tách rất nhiều. Mỗi cách trình bày và thẩm định lại đặt nặng một số yếu tố quyết định. Sự dị biệt vì vậy là điều dễ hiểu. Nói chung, chúng ta có thể thấy bốn loại vấn đề khác nhau.

Trước hết là loại vấn đề xuất phát từ một quốc gia khiếm khai về kinh tế (kém phát triển, chưa công nghiệp hoá, nông nghiệp vẫn còn là căn bản trong sinh hoạt và cơ cấu tổ chức) cho nên đất nước còn nghèo khốn, đi cùng những vấn đề chính trị của một xã hội tập quyền khiến xã hội không ổn định và khó phát triển. Thứ hai là loại vấn đề phát xuất từ chế độ cộng sản, tỏa rộng trong mọi sinh hoạt từ vật chất tối tinh thần của xã hội, do tính chất chuyên chính của chế độ. Hai loại vấn đề tạm gọi là chậm tiến và độc tài tác động và nuôi dưỡng lẫn nhau. Thứ ba là những vấn có tính chất giai đoạn của việc chuyển hướng cơ cấu kinh tế từ hệ thống tập trung quản lý sang hệ thống thị trường, với những trở ngại xuất phát từ những hạn chế chính trị hiện tại của chế độ. Sau cùng, những thay đổi của thế giới, với những bài toán mới về an ninh và kinh tế, cũng chi phối xã hội Việt Nam và ảnh hưởng đến chiều hướng giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước.

Trong các khó khăn của đất nước, chính trị dĩ nhiên là những nan đề then chốt nhưng không phải là duy nhất. Bất cứ một chính quyền nào có trách nhiệm lãnh đạo đất nước vào thời đại hôm nay đều phải đối phó với mọi loại thách đố đang đồng loạt xảy ra, và nếu dân chủ là điều kiện cần thiết, nó không phải là điều kiện ắt đủ và cũng bị chi phối bởi các yếu tố phức tạp khác. Việc viện dẫn dân chủ – hay đúng hơn, sự thiếu vắng dân chủ – có thể giúp chúng ta vượt lên trên một số khó khăn về mặt lý luận và tuyên truyền, nhưng không thể khỏa lấp được trách nhiệm giải quyết nhiều vấn đề cụ thể khác.

Đó là về phía Việt Nam, về bối cảnh chung của thế giới, ta có thể ghi nhận một số tổng kết sau đây:

Trong những yếu tố chi phối vận hành của một cộng đồng xã hội, quyền lực và bạo lực thường nắm vai trò quyết định. Thuật lý chiến tranh vì vậy có tác động mãnh liệt nhất, nhiều khi đi trước cả yếu tố văn hóa. Lịch sử con người còn tuần tự tiến hoá theo một đường thẳng vạch ra từ quá khứ tới tương lai, mà có thể là hậu quả của nhiều đột biến bất ngờ. Vào giai đoạn chuyển tiếp giữa hai hình thái thuận lý, những đột biến càng dễ xảy ra, làm đảo lộn những trật tự cũ và đặt ra nhiều nan đề mới, khó giải quyết bằng những phương thức cũ. Nhân loại đang ở vào một thời kỳ chuyển tiếp đó, với những hậu quả như cạnh tranh gay gắt hơn, chiến tranh dễ xảy ra, phân hoá là phổ biến, hợp nhất là hãn hữu …

Trong thời đại hôm nay, ý niệm quốc gia bị thách đố trên cả hai mặt. Bên trong, sự phân hóa vì nhận thức, quyền lợi hoặc tinh thần địa phương là những sức ly tâm đáng kể. Bên ngoài, kinh tế và khoa học kỹ thuật lại vượt qua biên giới các nước và trung hoà ảnh hưởng của những chánh sách cấp quốc gia. Trong lãnh vực thuần túy kinh tế, ý niệm quyền lợi dân tộc cũng bị tách ra hai hướng. Một đằng chủ quyền bị tan loãng trong những quan hệ tư hữu và quản lý đan kết với nhau thành một màn lưới đa quốc hay liên quốc phức tạp. Đằng khác, ta thấy nổi lên khuynh hướng bảo hộ mậu dịch và hạn chế ngoại thương, cũng nhân danh công bằng xã hội và quyền lợi quốc gia. Cả hai hiện tượng mâu thuẫn này đều nổi lên rất mạnh từ dăm năm nay và sẽ còn chi phối sinh hoạt kinh tế của thế giới cho tới thế kỷ sau.

Một máy điện toán do một công ty Hoa Kỳ thiết lập tại Mã Lai Á, ráp chế những cơ phận sản xuất từ bảy tám quốc gia khác nhau trong vùng Á Châu Thái Bình Dương để bán lại cho viện bào chế Hoà Lan lập trụ sở tại Nam Dương … là một sản phẩm không có quốc tịch nhất định. Qua suốt tiến trình sản xuất và phân phối đó, sắc dân nào càng tham gia nhiều càng có nhiều quyền lợi và lợi nhuận. Mức đóng góp của mỗi sắc dân vào sự thịnh vượng tổng hợp này là mấu chốt về “quyền lợi quốc gia” được hiện đại hoá trong hình thái kinh tế hội nhập. Ngược lại, do những thay đổi về hình thái sản xuất, do tình trạng suy thoái kinh tế tại các nước hậu công nghiệp cùng với sự xuất hiện của những nước tân hưng có khả năng cạnh tranh ngày một mạnh, người ta bắt đầu thấy nổi lên tinh thần quốc gia cực đoan trong kinh tế, phản ảnh qua chủ trương bảo hộ mậu dịch, để tránh né cạnh tranh quốc tế và bảo vệ công ăn việc làm trong nước.

Giữa hai quan điểm có vẻ đối nghịch trên, ý niệm về chủ quyền và quyền lợi quốc gia không còn là một ý niệm đơn giản. Trong khi đó, mọi xã hội, nhất là những xã hội chưa công nghiệp hoá, đều thấy cơ cấu của mình trước sau phân hoá ra hai rồi ba thành phần khác nhau, với những chênh lệch lợi tức và nhận thức ngày một đào sâu.

Thành phần thứ nhất sinh hoạt trong các ngàng nông nghiệp hay nguyên vật liệu đệ nhất đẳng sẽ thấy vai trò của mình suy yếu dần, cùng với lợi tức và quyền hạn. Đây là những thành phần sinh sống tại nông thôn, chưa quen với sản xuất kỹ nghệ, có phản ứng thủ cựu gắn bó với những yếu tố vật chất và tinh thần của quá khứ, từ đất đai tới gia đình, tổ quốc hoặc những điều ta thường gọi là truyền thống dân tộc. Thành phần thứ hai gồm có đa số là thị dân, sinh hoạt trong các ngành công nghiệp biến chế và các loại dịch vụ thành phố. Họ có ưu thế rõ ràng hơn người sống tại thôn quê, vì làm những việc trong khuôn khổ công nghiệp và có tinh thần cởi mở, hướng ngoại để vươn ra tới bên ngoài. Đây là thành phần tiến bộ hơn và có khả năng cạnh tranh tích cực hơn, nhưng cùng thấy ưu thế tương đối của mình bắt đầu bị đe dọa bởi một thành phần mới nổi lên. Thành phần thứ ba này là những người đã sinh hoạt trong hình thái sản xuất hậu công nghiệp, như những ngành tín học, truyền thông, điện toán, tài chánh hay dịch vụ thượng đẳng. So sánh với hai thành phần trên, họ có khả năng và lợi tức cao hơn cả, có phản ứng tự nhiên của kiến thức toàn cầu. Những thành phần này ở nhiều quốc gia khác nhau còn dễ liên kết với nhau hơn là với hai thành phần kia dù thuộc cùng xã hội của họ. Cùng với giới trí thức và văn nghệ sĩ, họ là những “công dân của thế giới” và có ý niệm tương đối, nghĩa là rất dễ tranh luận, về quốc gia, dân tộc.

Nước ta mới chỉ thấy một sự dị biệt giữa dân chúng tại nông thôn và thành thị cùng với sự thất quân bình cơ cấu giữa hai miền Nam Bắc, nhưng càng mau chóng canh tân sẽ càng sớm thấy sự xuất hiện của thành phần thứ ba và càng thấy sự cách biệt giữa các thành phần trên bị mở rộng. ?ó là ta ch?a nói đến những mầm mống chia rẽ vốn có, về chính trị hay địa phương, hoặc do khác biệt về tư duy giữa người Việt ở hải ngoại với dân chúng ở trong nước. Khi ?ó, những mâu thuẫn giữa tiến bộ và truyền thÓng, giữa thành thị và thôn quê, giữa cái mới và cũ, giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội … càng dễ trở thành đầu mối phụ trội của xung khắc, vào đúng lúc mà dân tộc cần kết hợp nỗ lực chung để tiến vào thế kỷ 21.

Sau khi nhắc lại một số nhận xét về nan đề và bối cảnh, một vài câu hỏi có thể giúp ta nhìn ra những vấn đề của đất nước khi mở của cạnh tranh với bên ngoài: chẳng hạn như đâu là sức mạnh của dân tộc, đâu là quy tắc hợp tác và phối hợp giữa chính quyền và người dân, đâu là lằn ranh quốc gia và quốc tế.. Trong khuôn khổ một tài liệu nhỏ, ta sẽ tìm hiểu dưới đây một số giải pháp cho nhừng câu hỏi trên, khởi đi từ một nhận xét của người xưa và cập nhật dần theo hoàn cảnh ngày nay.

Ngô Thời Nhiệm, Cảnh Sát Mãi Lộ Và Vài Vấn Đề Muôn Thuở

Hơn hai trăm năm trước, trong lời tựa của một bài khải dâng lên Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (Cần Bộc Chi Ngôn, tạm dịch là Lời Chân Thành Thô Vụng), Ngô Thời Nhậm có luận về đạo trị nước, mà ông cho rằng bao gồm ba yếu tố then chốt là “giáo”, “pháp”, “chính”. Và ông phê phán tình trạng trị nước thời đó như đã tóm lược ở trên, trước khi kết luận bằng một nhu cầu mà thời nay ta gọi là kinh tế: “điều mấu chốt là phải xem cái tình trạng thiếu thốn và cái sự thực thiếu thốn mà nghiên cứu chỉnh đốn lại”!

Cả ba loại vấn đề Ngô Thời Nhiệm nhìn thấy ở Bắc Hà vào thời Lê Mạt đều là những vấn đề có tính chất thời sự. Nguyên nhân của chúng cũng vậy.

Sự kiện nền giáo dục chúng ta kém, học trò không có tiền đi học, giáo viên không đủ lương sống và dụng cụ giảng huấn nghèo nàn cổ lổ là điều đã được mọi người nói tới. Sự kiện luật pháp lỏng lẻo bất nhất vì thiếu người có khả năng, mà nhiều đảng viên cán bộ lại có những đặc quyền và đặc lợi lớn lao ở những vị trí bất xứng cũng là điều đã trở thành công khai. Sự kiện chánh sách không thi hành được vì tham nhũng tràn lan và vì công nhân viên chức lương bổng thấp là điều ai cũng biết. Tất cả những vấn đề trên đều là hiện thực. Xét trên bình diện thuần tuý kinh tế, tất cả quả là do sự khan hiếm và thiếu hụt mà ra.

Tình trạng công quỹ thiếu hụt ngày nay là một vấn đề tiêu biểu: ngân sách quốc gia bị thâm thủng vì chi nhiều hơn thu, công nhân viên chức quá đông lãnh lương quá thấp (khoảng 20 mỹ kim một tháng so với 50 mỹ kim của giới tư chức có tay nghề) nên đa số phải sống nhờ “bổng” hơn là lương, khiến việc quản lý trong bộ máy công quyền bị rối loạn. Viên chức nào muốn đủ sống thì phải làm thêm trong khu vực tư, hoặc khai thác công sản trong phạm vi quản lý của mình làm như thu nhập kinh doanh cho mình hay cho cơ quan. Sự nhập nhằng công tư và tình trạng chòng chéo thiếu minh bạch giữa hai ba hệ thống quản lý (đảng và nhà nước, cán bộ, tư nhân) là một môi trường thuận lợi cho hối mại quyền thế, tham nhũng và rối loạn kỷ cương.

Ngoài lãnh vực công an và quốc phòng, đa số viên chức nhà nước là những ngưồi làm việc trong các ngành có tính chất yểm trợ xã hội, như giáo dục và y tế đại chúng. Khi bộ máy công quyền phục vụ xã hội lại bị đụt khoét bởi tham nhũng và xoi mòn bởi sự thiếu thốn, cả xã hội đều bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng nặng nhất cho tương lại là tình trạng sức khoẻ và giáo dục của trẻ em. Dù những cán bộ hữu trách có biện bạch cách nào đi nữa trẻ em Việt Nam vẫn có tỷ lệ suy dinh dưỡng, bị còi, bị chậm lớn thuộc mứcc cao nhất trong trong các nước Á Châu chưa phát triển. Chẳng hạn như phân nửa các em nhỏ dưới 6 tuổi được coi là ở trong điều kiện thiếu ăn. Dù những thống kê xã hội của Việt Nam có trưng bày những con số khả quan về giáo dục đại chúng, về tỷ lệ biết đọc và biết viết tương đối cao so với mức lợi tức trung bình thấp, sự kiện là từ 1980 về sau nền giáo dục của nước ta bị khủng hoảng, có tới một phần ba các em bỏ học phá ngang để kiếm sống một cách chật vật … là những sự kiện thực tế. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người Việt Nam thua sút thiên hạ cũng là những hậu quả thực tế.

Ta còn có thể minh diễn về nguyên nhân của sự thiếu thốn từ nhiều khía cạnh khác, chẳng hạn như ngoài đường vào tới công đường.

Một viên cảnh sát công lộ với đồng lương chết đói không nuôi nổi vợ con tất chẳng mấy thiết tha giữ gìn trật tự công cộng và an toàn giao thông. Anh ta phải bù đắp lại sự thiếu thốn của mình bằng những bổng lộc khác. Trong điều kiện chuyển vận hỗn loạn của một thành phố bành trướng nhanh hơn hạ tầng cơ sở, xe cộ di chuyển thường xuyên vi phạm luật lệ giao thông. Bổng lộc của viên cảnh sát có thể là những vụ phạt vạ thả dàn và sự yêu cầu “thông cảm” của người bị phạt. Người ta nộp tiền phạt nhiều hơn mức quy định, tùy theo khả năng thương lượng với người đại diện công quyền là viên cảnh sát, để tránh xe gắn máy của mình phải bị câu lưu và bị làm thịt vô tội vạ trong bót. Viên cảnh sát đã tiện thiện “trưng thu”. Giản dị là làm tiền dân chúng ngoài vòng hợp pháp để bù đắp cho khoản lương ít ỏi của mình. Viên chức công quyền ở vị trí khiêm nhượng nói trên đã trở thành người đòi tiền mãi lộ, với cái giá anh ta quy định. Vị trí của anh trở thành một nơi béo bở, một mục tiêu tranh giành. Những viên chức khác tất cũng phải nhìn quanh xem mình có cơ hội bán chác hay cho thuê nào khác để tự đền bù như vậy chăng. Vì vậy mà người ta bán học bạ, bằng cấp, giấy phép hành nghề, cho thuê công sản hoặc đặc quyền kinh doanh ….

Thay vì đóng thuế cho nhà nước để thanh toán các khoản công chi được minh định hẳn hoi, người dân đã thực tế đóng thuế cho tay chân nhà nước, ngoài quyết định chính thức của nhà nước và ngoài ý muốn của mình. Và dân lại tìm cách đền bù bằng những bổng lộc khác, thường cũng nằm ngoài vòng quy định của nhà nước. Cảnh sát tiếp tục bị trả lương thấp nhưng đã lấy tiền mãi lộ chạy xe “cúp” thay xe đạp. Nhà nước tiếp tục không được thu thuế, và dân chúng tiếp tục đóng ít thuế, hoặc trốn thuế, nhưng phải nộp nhiều phụ phí quái dị trong mọi sinh hoạt tiếp cận với chính quyền. Nhà nước bất lực nhìn tài nguyên chuyển trong sự hỗn loạn và phi lý trên. Dịch vụ công cộng và cả công sản lớn nhỏ đã được đổi chác cũng hỗn loạn và phi lý như vậy.

Hău quả là quyết định phân phối và sử dụng tài nguyên bị lệch lạc từ trên chí dưới, không ai kiểm soát nổi, khiến ai ai cũng sống trong một thế giới giả tạo. Nhà nước “làm như” trả lương, công chức “làm như” công bộc, người dân “làm như” đóng thuế, và cả nước “làm như” phát triển trong sự điều hướng của nhà nước cũng giả tạo như sự phồn vinh. Làm công nhân viên chức trong những ngành tiếng là lương thấp mà lại có bổng cao trở thành một đặc quyền có thể tiền tệ hóa, tức là bán chác được, ở nhiều cấp từ dưới lên trên, mà cả dân chúng lẫn lãnh đạo lại không kiểm soát được. Việc bố trí nhân sự cũng bị hiện tượng lệch lạc mà Ngô Thời Nhiệm gọi là không công, và guồng máy công quyền mới hỗn loạn trong tình trạng không việc gì chạy, nhưng việc gì cũng có thể chạy chọt được, bằng những hình thức trưng thu tự phát, nằm ngoài quy định của luật pháp, của sự hợp lý kinh tế.

Ta đang thấy lại những vấn đề muôn thuở khi nhớ tới cảnh “sinh đồ ba quan” thời Trịnh Giang hoặc nạn mua quan bán tước làm pháp quyền trung ương thành lỏng lẻo mục nát như vào thời Ngô Thời Nhiệm.

Dĩ nhiên, đây là tình hình chung của nhiều xã hội kém phát triển, không là một độc quyền của Việt Nam (loại nan đề của các nước khiếm khai có lợi tức thấp). Nhưng, ở Việt Nam, khi đưa thêm yếu tố chính trị vào bài toán kinh tế và tổ chức nói trên (loại nan đề của một nước bị cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản), ta có tất cả những phi lý trong việc điều dụng tài nguyên và nhân sự. Ta có cái vòng lẩn quẩn của sự thiếu thốn khiến ai ai cũng bất mãn nhưng vẫn cố và có thể sống thoải mái nếu hiểu qua quy luật, thường thì là một loại quy luật phản kinh tế. Chỉ có guồng máy nhà nước là mục nát và chánh sách nhà nước, điều Ngô Thời Nhiệm gọi là “chính”, không được thi hành. Rốt cuộc, việc sử dụng tài nguyên có lợi nhất cho quốc gia vẫn là điều bất khả. Khi mở cửa bước ra thế giới cạnh tranh kịch liệt và bất ổn, Việt Nam sẽ ở vào thế yếu. Cơ cấu xã hội rối loạn giữa vòng lẫn quẫn của sự khan hiếm và bất mãn sẽ đẩy mạnh những lực ly tâm trong cộng đồng khiến rối loạn có thể biến thành nội loạn.

Phân định công tư bằng luật lệ minh bạch và chấp hành nghiêm minh; giảm cấp số công nhân viên chức và tăng lương cho những người còn lại, căn cứ trên khả năng để kiện toàn bộ máy nhân sự công quyền; huấn nghiệp, tái huấn luyện và yểm trợ cho những người kia xây dựng một cuộc sống bình thường và lành mạnh trong lãnh vực kinh doanh … là những phương hướng hầu như đương nhiên của việc chỉnh đốn cái nạn thiếu thốn. Từ năm bảy năm nay người ta vẫn chưa giải quyết được việc chỉnh đốn đó, nên đất nước sẽ tiếp nhận những hậu quả tai hại trong lâu dài. Trước mắt là nạn tham nhũng và tình trạng gần như là vô chính phủ, mà nhiều người lầm lẫn coi như hậu quả của kinh tế thị trường.

Với một hạ tầng cơ sở xã hội suy nhược và một guồng máy công quyền rời rã như vậy, Việt Nam có một tương lai không mấy sáng sủa, và nhận xét của Hy Doãn Công bắt buộc ta phải suy ngược lên những nguyên nhân của thiếu thốn, khiếm hụt.


Khoáng Sản, Trí Tuệ Và Dăm Ba Nhận Thức Mới

Nhiều giới lãnh đạo vùng Đông Á từng góp ý rằng Việt Nam là một nước giàu tài nguyên và nếu như dân tộc họ có một lãnh thổ như Việt Nam, họ dư sức nuôi sống tới 200 triệu dân. Đối với họ, Việt Nam có một tiềm lực của một tiểu long kinh tế. Những nhận xét này có thể ru ta vào một cơn mộng mị tai hại.

Dân số nước ta hiện đã quá 70 triệu người, đứng hàng thứ 12 trên địa cầu, Việt Nam không là một nước nhỏ như ta thường nghĩ khi than về “thân phận nhược tiểu” của đất nước. Nhưng, khi kể về diện tích, Việt Nam chỉ là một nước trung bình, khoảng hàng thứ 60, và kể về mật độ dân số, hàng thứ 160 trong gần 200 quốc gia lớn nhỏ. Kể về lợi tức đầu người, dân ta có lợi tức dưới 200 mỹ kim một năm – gần với mức 150 hơn là 200, tùy theo cách tính và thuộc trong vài chục quốc gia nghèo nhất, Việt Nam là một nước có dân số cao, có diện tích thuộc cở trung bình, và có lợi tức vào loại cực thấp và nay đang phải giải quyết lấy bài toán khan hiếm của mình.

Sau khi hãnh diện vì đã đánh bại mọi loại kẻ thù, người ta đã để đất nước rơi vào sự cùng khốn triền miên. Sau khi đã lên tới đỉnh cao của những chiến thắng thảm hại, người ta đang mong rằng kẻ thù nào cũng có thể là một nhà đàu tư tiềm thế, có khả năng đüa đất nước lên quỹ đạo phát triển. Sau khi đã hy sinh nhiều thế hệ, người ta đang kinh ngạc khoe khoang với thế giới rằng Việt Nam bị tàn phá vậy chứ vẫn có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa khai thác hết. Từ ngư lâm hải sản tới kim loại quặng mỏ, dầu hoả dầu khí, và cả những loài chim hiếm thú lạ, v.v …. những tài nguyên trên được ồn ào quảng cáo, như những báo vật trời cho, sẽ đưa nước ta một bước lên vị trí cường quốc kinh tế.

Vì vậy mà lời tiên đoán rằng Việt Nam sẽ thành một con rồng kinh tế mới có khả năng thuyết phục đáng ngại.

Nhận thức thứ nhất có tính chất quyết định ở đây chính là cách lượng giá về nền tảng của sức mạnh của đất nước. Đây cũng là điều ta có thể gọi là một sự lạc hậu về nhận thức khá phổ biến.

Việt Nam có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau có thể yểm trợ cho việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nước nhà. Nhưng, tài nguyên đa loại chứ không hẳn là dồi dào đáng kể. Về mặt chủ quan, trữ lượng của những nguồn tài nguyên đã kiểm tra không được coi là nhiều khi so sánh với dân số, tức là khi so sánh với nhu cầu tiêu thụ. Đó là ta chưa đề cập tới cách khai thác gây nhiều hao phí hiện nay. Trong có vài chục năm, dân ta thả cửa đốn cây, khiến đất rừng từ 50% trước chiến tranh nay chỉ còn bằng 25% diện tích lãnh thổ. Ở nhiều địa phương, ta ăn sạch thiên nhiên chim muông cây cỏ và gây nhiều tổn thất đắt đỏ cho môi sinh, nghiã là cho những thế hệ sau này. Có đổ lỗi cho thuốc khai quang của Mỹ thì cũng sẽ không giải quyết được vấn đề.

Về mặt khách quan, khối lượng tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng không nhiều khi so sánh với các nước lân bang. Do mật độ dân số cao, diện tich canh tác trung bình tính trên đầu người của nước ta không được coi là rộng, chỉ bằng một phần ba của Thái Lan hay Trung Quốc mà thôi. Cho nên, sản ngạch lúa gạo gia tăng trong mấy năm qua nhờ nông nghiệp được giải phóng thì cũng chỉ đủ cho dân ta khỏi nạn thiếu ăn kinh niên và số lượng xuất cảng sẽ không gia tăng mãi theo nhịp độ của mấy năm vừa qua. Nói chung, nông nghiệp sẽ không là sức mạnh khiến ta có thể trở thành một cường quốc thịnh vượng. Trong nhừng năm qua, dân ta còn phấn khởi về những nguồn thu ngoại tệ và ngân sách dầu hỏa. Thực ra, trữ lượng dầu hoả của Việt Nam cũng chỉ bằng Mã Lai Á, với một dân số cao gấp bốn người ta; và sản lượng dầu hỏa của Việt Nam cho tới nay vẫn chưa tới một phần năm mươi, với số dân chỉ bằng khoảng một phần ba của Nam Dương.

Như vậy, khi so sánh với những nước lân bang như Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai Á hay Nam Dương, Việt Nam không phải là một nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn hẳn thiên hạ, về cả canh nông lẫn công nghiệp. Đấy lại là những nước đầu tiên sẽ cạnh tranh với nước ta trên nhiều địa hạt ta tưởng là có ưu thế. Việt Nam chỉ có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn những nước Đông Bắc Á, như Đại Hàn, Nhật Bản hay Đài Loan. Các quốc gia này lại có trình độ kỹ thuật về tổ chức và sản xuất vượt trội, nên có khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên nước ta ở thế thượng phong, tức là có lợi cho họ hơn cho ta. Với lãnh thổ và tài nguyên của nước ta – và trí tuệ của họ – họ quả có khả năng nuôi nổi 200 triệu dân, nhưng 200 triệu người có trình độ tổ chức và sản xuất cao hơn ta.

Điều đó dẫn ta tới yếu tố thứ hai, cũng thuộc về nhận thức, đó là cách ta đánh giá đất nước.

Việt Nam không phải là xứ “tiền rừng bạc biển” để là miếng mồi ngon khiến nước nào cũng muốn xâm lăng như điều đã xảy ra trong thế kỷ trước. Ta nên bỏ nỗi sợ sệt bị ngoại xâm, mà nhìn ra nhiều vấn đề đáng ưu lo hơn, tiềm ẩn bên dưới tình trạng quản lý và cạnh tranh thua kém hiện nay. Điều cần nhắc lại là thế giới đã đổi thay và yếu tố quyết định không còn là tài nguyên thiên nhiên như xưa nữa. Ngược lại, Việt Nam cần hợp tác với các nước khác để khai thác tài nguyên của mình một cách có lợi hơn. Trong sự hợp tác, trình độ thua kém là nguyên nhân và là thực tế khách quan khiến các nước khác có lợi nhiều hơn nước ta. Nếu biết cải thiện trình độ kỹ thuật, ta sẽ sớm tránh được việc trao đổi thua thiệt. Nếu không, ta sẽ đói trên kho tài nguyên chưa biết khai thác và đành cầm bát vàng đi ăn xin, hoặc tiếp tục mở cửa để tay chân nhà nước bán rẻ công sản cho ngoại quốc vì bổng lộc không đủ như mới nói. Dân ta sẽ không mất chủ quyền vì bị ngoại bang xâm lăng hoặc cai trị, mà mất chủ quyền vì mất quyền quyết định trong sinh hoạt kinh tế mở rộng với thiên hạ.

Sức mạnh quyết định vì vậy vẫn nằm trong cái đầu hơn là trong những kho quặng mỏ dưới lòng đất. Chúng ta không nên lầm lẫn việc này với tinh thần đề cao các phần tử trí thức trong xã hội. Vấn đề là nâng cao trình độ kiến thức nói chung của cả nước.

Với tỷ lệ tăng trưởng thuần là 2,2% một năm, dân số nước ta sè nhân đôi trong khoảng một thời gian chưa đầy 32 năm, chỉ bằng thời gian từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật cho tới nay mà thôi. Do tình trạng chiến tranh kéo dài, gây nhiều thiệt hại cho nam giới, tỷ số nam/nữ ở nước ta là một tỷ lệ thấp và mới bắt đầu hồi phục từ sau 1980. Vì vậy mà mức phát triển cao quá 2% hiện nay vẫn khó được giảm bớt, cho dù chúng ta có đẩy mạnh nỗ lực kế hoạch hoá sinh sản. định luật của Malthus tiếp tục là một đe dọa cho nước ta trong vòng hai thập niên tới, trước khi ta hoàn tất, nếu có thể nổi, cuộc cách mạng công nghiệp và thuật lý sản xuất để thoát vòng luẩn quẩn giữa dân số và sản xuất. Người nước khác có thể nghĩ tới việc nuôi nổi 200 triệu dân trên lãnh thổ Việt Nam, dân ta lên tới 100 triệu là nước ta có loạn nếu ta không kịp cải thiện điều kiện phát triển. Đây là một nhận thức then chốt thứ ba. Nhưng, chúng ta cũng không nên rơi vào phản ứng thái hoá là coi mỗi đứa trẻ sơ sinh như một miệng ăn phụ trội vào kho tài nguyên vốn có hạn của cả cộng đồng. Ta cần một nhãn quan tích cực hơn vậy.

Khi tính sổ, Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên nhưng chỉ đủ để xây dựng điều kiện phát triển lúc ban đầu mà thôi. Nhưng, nước ta cũng chưa khai thác nổi một nguồn tài nguyên đáng quý hơn, đó là con người, với những tiềm lực lớn lao hơn gấp bội. Nếu giúp cho mọi người dân trở thành những tay làm, thay vì chỉ là một hàm nhai với năng suất lao động thấp, nước ta sẽ có triển vọng thịnh vượng không kém gì các nước Đông Á. Nếu chỉ nhìn vào tài nguyên thiên nhiên như một ưu thế, coi con người như cỏ rác mà không cải tiến cái đầu, ta sẽ chẳng cạnh tranh nổi với vài nước Đông Nam Á hạng hai như Thái Lan hay Mã lai, chứ chưa nói tới các nước kia. Ngoài ra, khi chưa biết quý trọng nhân lực như là tài nguyên tạo ra sự trù phú mà chỉ là những miệng ăn, ta tiếp tục gây nội chiến tinh thần: mỗi đùa trẻ sinh ra lại là một hao hụt phụ trội vào kho tài nguyên giới hạn của cộng đồng. Thay vì tích cực chung sức làm ra một cái bánh ngày một lớn hơn, ta sẽ tiêu cực nghĩ tới việc tranh giành một cái bánh muôn đời như cũ hoặc còn teo tóp đi. Đây là một yếu tố nhận thức thứ tư.

Hai nhãn quan đối nghịch nói trên không chỉ phản ảnh hai trạng thái tâm lý bi quan và lạc quan. Chúng còn phản ảnh hai hình thái kinh tế khác nhau. Hình thái phát triển của tương lai, đối nghịch với hình thái khan hiếm của quá khứ; hình thái sản xuất dựa trên kiến thức sẽ trở thành thực tại nay mai, đối diện với hình thái sản xuất dựa trên tài nguyên vật chất đang bị đào thải dần. Đi từ cơ sở thực tế chủ quan và khách quan, Việt Nam phải dứt khoát chọn lựa sách lược phát triển dựa trên nhân lực hơn là tài nguyên thiên nhiên, dựa trên trí tuệ hơn tài sản vật chất. Đây là một phương hướng tất yếu khi ta muốn giải quyết vấn đề công nghiệp hoá để thoát cảnh thiếu thốn và bước ra thế giới văn minh, vào thế kỷ tới.

Trong chiều hướng đó, việc nâng cao khả năng sản xuất bằng đầu tư vào giáo dục, kỹ thuật và huấn nghiệp sẽ phải là một ưu tiên. Đây là một yếu tố nhận thức thứ năm, đưa ta về đề mục giáo dục của Ngô Thời Nhiệm, một vấn đề chỉ có những kết quả trong lâu dài nhưng phải giải quyết ngay từ hôm nay.

Pháp Quyền, Thị Trường Và Những Hình Thái Phối Hợp

Nước ta đang thừa hưởng nhiều di sản của một xã hội lạc hậu trong đó chế độ tập quyền mang tính chất phụ quyền có tham vọng thay dân giải quyết nhiều bài toán sinh hoạt cho xã hội, theo những thang giá trị cũ có khi đã lỗi thời. Dân ta còn phải giải quyết những vấn đề căn bản của một chế độ tập quyền tối đa là chế độ cộng sản, trong đó người ta tưởng là có thể thay dân giải quyết mọi bài toán sinh hoạt cho xã hội. Mãi cho tới gần đây, nhà cầm quyền mới quyết định là phải thu hẹp phạm vi cai trị của mình, nhường chỗ cho dân chúng làm ăn theo những quy luật khách quan của thị trường. Một số vấn đề nước ta đang gặp chính là những lúng túng buổi giao thời khi chính quyền phải quyết định về vùng ảnh hưởng của mình và của thị trường.

Như trong mọi tiến trình chuyển tiếp, người ta có cả hiện tượng thái quá lẫn nạn bất cập. Và trong vấn đề lượng giá về sức mạnh của đất nước mới nói ở trên, chúng ta cũng cần điều chỉnh một số nhận thức.

Quan hệ giữa con người ta với nhau là một sự “phối hợp”, khiến có người ra lệnh kẻ chấp hành, có người mua kẻ bán, có người cho kẻ nhận, người đóng thuế kẻ lãnh trợ cấp … Trong một cộng đồng, người ta có sự phối hợp hàng dọc của pháp quyền nhà nước, hoặc của guồng máy hành chánh của nhà nước, thể hiện tính chất cưỡng bách từ trên xuống và được chế tài bởi luật lệ.

Hình thức phối hợp này có khuynh hướng bành trướng tự phát nếu không có những minh định và giới hạn bằng luật pháp. Giới làm chính trị thường lạm dụng quyền công chi ngân sách để vận động sự yểm trợ của những thành phần dân chúng ủng hộ họ, và khi gặp thiếu hụt thì dùng thuế của dân trang trải. Guồng máy công quyền thì thường xuyên có phản ứng bành trướng phạm vi phối hợp để tăng ngân sách, mở ra lắm chương trình mới, có những điều lệ kiểm soát mới, tuyển dụng thêm người, khiến trong xã hội người sản xuất thì ít đi mà người kiểm soát thì nhiều hơn vì những điều lệ hạn chế và kiểm soát cũng được lập ra nhiều hơn. Chế độ dân chủ cũng không ngăn ngừa được khuynh hướng bành trướng tự phát nói trên. Trong các nền dân chủ mang tính chất mị dân, giới chính trị trục lợi ở giữa thiểu số giàu có và đa số lợi tức thấp hơn, bằng cách lấy thuế của người giàu và hốt phiếu của người nghèo với lý cớ bảo vệ quyền lợi của cả hai.

Kiểm điểm kết quả phát triển của mọi loại xã hội cổ kim, ta thấy là khi nào phối hợp pháp quyền càng bành trướng mạnh (phản ảnh ở khối lượng tài nguyên được nhà nước vận dụng qua ngân sách quốc gia chẳng hạn, khi so sánh với tổng sản lượng của xã hội) thì xã hội càng bị bế tắc và nghèo túng đi. Ngay từ thời xưa, trong tập Thái Công Binh Pháp tương truyền là của Khương Lã Vọng, ta đã thấy nói tới phép trị nước là “chớ cướp đoạt thời giờ cày cấy trồng dâu nuôi tằm của dân; thâu thuế ít thì dân không thiếu tiền của; ít việc lao dịch cho nhà nước thì dân khỏi nhọc nhằn, ắt nước giàu mà nhà nhà vui vẻ ….” Toàn là lời khuyên nên giới hạn phối hợp pháp quyền để dân tự do làm ăn, chẳng khác gì chủ trương kinh tế tự do ngày nay.

Trong một xã hội dân chủ, nền tảng luật pháp được thể hiện từ người dân lên tới nhà nước cho nên hình thái phối hợp pháp quyền này còn tính chất tự nguyện (trong ý nghĩa của một hợp đồng xã hội theo tinh thần của Rousseau) và có thể được kiểm soát hay điều chỉnh bằng nhiều định chế khác nhau có khi lệch lạc hoặc bành trướng quá mức. Nhờ vậy mà các nước dân chủ phát triển nhanh hơn các xã hội bị độc tài. Trong một xã hội mà ý dân không thể tự do phản ảnh, quyền dân không được thực tế tôn trọng, người ta không có khả năng điều chế hình thái phối hợp pháp quyền và những lệch lạc trong quyết định sung dụng tài nguyên khó được cải sửa. Đó là hiện tình nước ta, một tệ nạn Ngô Thời Nhiệm gọi là không công. Hiểu theo ý nghiã hiện đại, đây là tình trạng vì thiếu công minh mà trở thành bất công và bất lực. Do những khủng hoảng xuất phát từ hệ thống phối hợp có tính chất phụ quyền và thô bạo trước đây, nhà cầm quyền đang tiến dần ra việc phối hợp pháp quyền và, trên nguyên tắc, đang tìm các định chế hóa hình thái phối hợp này. So với thời trước, nước ta có một sự tiến bộ tương đối, nếu không chế độ đã sụp đổ. Nhưng, so với nhu cầu khách quan của đất nước, việc định chế hóa nói trên vẫn còn quá chậm và thất thường. Nguyên nhân không chỉ do chủ đích chính trị của nhà cầm quyền, mà còn là khả năng giới hạn của bộ máy công quyền đang đi tìm cho mình một chức năng và vị trí thích hợp trong một xã hội và một thế giới đang có nhiều thay đổi. Đây là một nhận thức cần điều chỉnh cho chính xác vì là một vấn đề xảy ra cho mọi chính quyền, kể cả những chính quyền ta công nhận là dân chủ.

Chức năng và vị trí thích hợp nói trên được minh định trong tương quan đối lập giữa phối hợp của pháp quyền nhà nước với phối hợp của thị trường.

Phối hợp bởi thị trường là hình thức phối hợp hàng ngang, tự nguyện và bình đẳng giữa các thành phần (tóm tắt là giữa người mua người bán với nhau), được thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận, phản ảnh bởi quy luật cung cầu. Trong những phương thức quyết định về việc phân phối và sử dụng tài nguyên để tạo ra của cải vật chất và tinh thần hầu có thể giải quyết bài toán khan hiếm của một cộng đồng, phương thức phối hợp thị trường là tương đối có lợi nhất. Đeo trên cổ tay một phẩm vật thường dụng là cái đồng hồ chẳng hạn, ta có kết quả của hàng trăm quyết định kinh tế khiến các yếu tố cấu thành như nhựa, đồng, dây da, sơn, sắt, mặt kính thuỷ tinh, cục pin điện, v.v… được kết hợp với nhau khi vượt qua biết bao chặng vận chuyển, trao đổi, biến chế, phân phối. Chẳng hạn từ mủ cao su nạo tại Mã Lai Á tới cát mịn tại Cam Ranh làm kính, tới kim khí hay hóa chất biến chế tại Nam Dương, máy móc lắp ráp tại Thụy Sĩ … ngần ấy yếu tố tạo ra cái đồng hồ đã được thị trường phối hợp và vận dụng bằng những giải pháp tối hảo về mặt phí tổn và giá cả, gần như một cách vô thức nếu không nói là do bàn tay vô hình của thị trường. Trong thế giới ngày nay, người ta còn cần suy rộng ra sự phối hợp thị trường có tính chất siêu quốc gia và có tác động mạnh hơn chánh sách kinh tế của một chính quyền, tức là mạnh hơn cả sự phối hợp pháp quyền của một nước, mà ta đã gọi là “thị trường mạnh hơn chính trường”.

Nếu nghĩ ngược lại rằng mọi việc, từ khai thác quặng mỏ làm cơ phận hoặc biến chế cát thành thủy tinh làm mặt kính, khai thác kỹ nghệ thuộc da làm dây đồng hồ, kỹ nghệ ấn loát làm hộp và tài liệu quảng cáo … cho tới việc phân phối ở trong và ngoài phạm vi lãnh thổ, đều được quyết định bởi hình thức phối hợp tập trung của một quốc gia, ta sẽ suy ra những ách tắc và hao tốn ở mỗi chặng của tiến trình sản xuất và phân phối. Do tình trạng tắc nghẽn và phao phí trên mà các chế độ tập quyền của khối Xô Viết đã bị khủng hoảng và sụp đổ, và Việt Nam đã phải thay đổi.


Những Xiết Mở Phi Lý Và Chặt Lỏng Thất Thường

Tuy nhiên, thị trường không thể giải quyết được mọi vấn đề phối hợp trong một cộng đồng, nhất là cho nhu cầu an ninh và xã hội. Trên thế giới, cũng chẳng có một ai lại đơn giản chủ trương là phải để cho thị trường quyết định về mọi việc phân phối hay xung dụng nhân lực và tài nguyên của một quốc gia. Trong một cộng đồng ngày càng mở rộng và có những sinh hoạt bao trùm lên biên giới chính trị, cả hai hình thái pháp quyền và thị trường đều cần thiết và ở trong trạng thái vừa liên lập vừa đối lập trong một thế quân bình tất nhiên là bất ổn.

Đây cũng là một nhận thức mới mà ta cần điều chỉnh, để không phê phán những ai đề cao quy luật thị trường là nhắm mắt đi theo chủ nghiã tư bản mà không lý gì tới công bằng hay trật tự xã hội; hoặc công kích những người đề nghị việc kiện toàn khả năng phối hợp của nhà nước là vô tình củng cố chế độ cộng sản. Thực tế của Việt Nam còn thê thảm hơn những ngộ nhận trên, vì nước ta chưa khai thác được lợi thế mà lại có những khiết điểm tích tụ của cả hai.

Hình thái phối hợp pháp quyền không được định chế hoá hẳn hoi, cho nên ta có một nền kinh tế thị trường vô luật pháp, với guồng máy nhà nước bao biện mà bất lực vì xiết dân ở những nơi không cần thiết mà lại nới lỏng ở những nơi cần kỷ cương trật tự. Vì vậy mà dân chưa có tự do kinh doanh theo đứng nghĩa, nhà nước không bảo vệ được quyền bình đẳng của mọi thành phần trong thị trường và chẳng gìn giữ được trật tự xã hội. Vì vậy mà viên chức công quyền mới tự động trưng thu bất cứ khi nào có cơ hội, và hầu như mọi việc kinh doanh bất hợp pháp trên nguyên tắc đều có thể được giải quyết bằng thương thảo và tham nhũng, khiến quy luật thị trường mới càng rối loạn. Nguyên nhân là vì chúng ta có hình thái phối hợp pháp quyền quá chặt và quá lỏng, lại ở những nơi không thích hợp.

Hình thái phối hợp pháp quyền sở dĩ quá chặt là vì nhà cầm quyền không tin vào dân chúng, cứ tủy theo áp lực của tình hình mà ban hành những điều lệ hay quy định, cho nên mới thường xuyên bị động. Nói chung, khu vực tư doanh chưa có một môi trường phát triển tự do và thuận lợi. Vì phản ứng thủ cựu và chặt chẽ này người ta mới có chủ trương điều tiết thị trường bằng hệ thống quốc doanh và guồng máy hành chánh, đó là mô thức “xã hội chủ nghĩa thị trường” đã phá sản tại Đông Âu sau vài thập niên được thử nghiệm. Hậu quả là nhà nước không chấp nhận đối lập chính trị, ban hành quá nhiều điều lệ (thay đổi thất thường theo lối vừa làm vừa sửa), lập ra quá nhiều trạm kiểm soát trong thương nghiệp và xuất nhập cảng, quy định những thuế biểu quá chi ly phức tạp (mà không có khả năng áp dụng hoặc hành thâu thực tế), không minh định quyền tư hữu về đất đai chuyên dùng, và không cho tư doanh quyền bình đẳng thức tế với quốc doanh.

Hình thái phối hợp này lại quá lỏng trong nhiều lãnh vực mà đáng lẽ nhà nước phải kiểm soát và chấp hành nghiêm mật. Thí dụ thường được chuyên gia quốc tế nói tới là Việt Nam chưa có những luật lệ về bảo vệ môi sinh. Vấn đề thực ra trầm trọng và cần kíp hơn thế: Việt Nam có hình thức của một sự ổn định về chính trị mà thực chất là một xã hội hỗn loạn và trật tự công cộng không được bảo vệ vì đối lập thì vào tù mà tham nhũng thì giầu to, trộm cướp mặc sức tung hoành. Việt Nam thiếu hẳn một khuôn khổ luật pháp nhất quán và có khả năng yểm trợ sinh hoạt kinh tế. Hậu quả là lệ mới có nhiều hơn luật, và dễ mặc cả thương thảo hơn, y như bổng có giá trị hơn lương. Đi từ thái cực này qua thái cực khác, sau khi tháo gỡ hệ thống quản lý tập trung, nước ta lại chẳng có một bộ phận phối hợp toàn bộ việc cải tổ kinh tế cấp quốc gia, một bộ phận trung ương theo dõi kết quả tài chánh của các công ty quốc doanh và giải quyết việc thanh lý những cơ sở lỗ lã, một bộ phận tập trung điều hợp việc nhận lãnh và sử dụng ngoại viện (và đối giá bạc Việt Nam của viện trợ), v.v…

Vì vậy mà trong sinh hoạt kinh tế việc gì cũng có thể bị ngăn cấm mà vẫn vượt qua được, miễn là biết nơi thương thảo và giá biể thương thảo.

Hậu quả chung của mâu thuẫn trên là nhà nước ôm đồm bao biện, nuôi nhiều công nhân viên chức với đồng lương không đủ sống, khiến công vụ không chạy mà tư doanh cũng chẳng có thể phát triển mạnh mẽ. Trung ương vì vậy khó điều động được địa phương, việc sung dụng tài nguyên bị rối loạn, ngân sách thu không đủ thuế để trang trải đầu tư xã hội mà nhiều đảng viên cán bộ thì lại làm giàu lớn. Những đố kỵ và dị biệt cấp vùng vì vậy càng dễ phát tác thành những xung đột quyền lợi làm xã hội thêm phân hoá. Địa chấn Nam Tư là một thực tế kinh tế.

Điều bất lợi cho lâu dài, nếu chưa là một sự phân hoá và tan rã trước đó, là thay vì đứng sau yểm trợ cho tư doanh nước nhà cạnh tranh hữu hiệu với ngoại quốc trong cơ chế thị trường thì guồng máy nhà nước lại thay thế tư doanh làm ăn với ngoại quốc, và làm ăn trong thế yếu, vì thiếu khả năng ứng phó linh động như kết quả kinh doanh của hệ thống quốc doanh đã chứng minh. Dưới mắt của dân chúng và của chính những đảng viên cán bộ đã xả thân vì mục tiêu độc lập dân tộc thời trước, nhà nước đang tiếp tay ngoại bang khai thác nước nhà trong thế trao đổi bất công và bất lợi. Suy từ những nhận định trên, hầu như ai cũng có thể đồng ý là Việt Nam cần một nỗ lực cải tổ đi từ căn bản pháp quyền của nhà nước xuống tới dân. Chức năng của bộ máy công quyền phải được minh định rõ ràng là 1) bảo vệ an ninh xã hội (quốc phòng và trật tự công cộng); 2) bảo đảm cho sự vận hành đều hoà những định chế cần thiết cho sinh hoạt của quốc gia (như quyền tư hữu, quyền tự do thông tin và kinh doanh, sự ổn định tiền tệ, nền tảng luật lệ nghiêm minh và công bằng, hệ thống tài chánh và ngân hàng vững mạnh); 3) xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất và xã hội, mà tư nhân không làm nổi, để yểm trợ phát triển kinh tế và xã hội (đường xá, cầu cống, thủy vận và thiết lộ, hay giáo dục, huấn nghệ, y tế công cộng).Ngoài mấy lãnh vực trên, nhà nước phải mở ra cho dân được tự do làm ăn, và yểm trợ cho dân làm ăn thắng lợi trên các thị trường quốc tế.

Một yếu tố nhận thức cần được nhắc lại mãi, đó là vai trò giải quyết nạn thiếu thốn mà Ngô Thời Nhiệm có nói tới, tức là chức năng làm giàu. Làm giàu là phản ứng và là khả năng tự nhiên của dân chúng, yểm trợ người dân làm giàu là nhiệm vụ của nhà nước. Dân có giàu nước mới mạnh. Nhà nước không có chức năng làm giàu vì vận hành theo những quy luật khác, cho những mục tiêu khác. Nhà nước mà càng muốn tiến theo con đường làm giàu thay dân thì chỉ tay chân nhà nước là giàu có và công quỹ thì kiệt quệ, mà quyền lợi quốc gia không còn ai bảo vệ.

Khởi dẫn từ nhận định của Ngô Thời Nhiệm tới những vấn đề của ngày nay, đã đến lúc ta đề cập tới vấn đề chánh sách quốc gia để bảo vệ chủ quyền kinh tế.

Độc lập Dân Tộc Là Liên Đới và Hợp Quần:

Vào thời kỳ mà chiến hạm Pháp công phá thành Đà Nẵng, chiến hạm Hoa Kỳ cũng đang uy hiếp Nhật Bản. Khác với vua quan nước ta khi đó, người Nhật đã giác ngộ và rút kết luận hợp lý, nên họ mau chóng hiện đại hóa đất nước và trở thành một cường quốc công nghiệp. Hai quả bom nguyên tử trên Quang Đảo và Trường Kỳ không chỉ chấm dứt chiến tranh mà còn là một lần giác ngộ thứ hai cho người Nhật. Họ đã chuyển bại thành thắng trong cuộc đua kinh tế kéo dài suốt nửa thế kỷ vừa qua. Trong cùng khoảng thời gian đó, Việt Nam ta đã có ảo tưởng chiến thắng, từ Điện Biên Phủ 1954 tới Saigon 1975, nên đã tiếp tục đi trong sương mù cho tới cuối thế kỷ này. Chúng ta đã trả cái giá quá đắt cho tinh thần độc lập dân tộc khi đặt sai chỗ. Ngày nay, mối đe doạ nguy ngập nhất cho xã hội ta không còn là một áp lực ngoại nhập mà là những phản ứng ly tâm và phân hoá từ trong bùng ra. Vì vậy, tinh thần dân tộc cần được quan niệm lại cho rõ ràng.

Điều trước tiên cần xác định, tinh thần dân tộc phải khởi đầu bằng ý thức liên đới giữa người dân với nhau.

Trước hết, Việt Nam không có nhu cầu minh chứng tính chất ưu việt của hệ tư tưởng xã hội chủ nghiã trên tư bản chủ nghĩa, và cũng chẳng cần niềm kiêu hãnh đắt đỏ là đã thắng mọi loại kẻ thù trong thế kỷ này. Thực tế là toàn dân ta đã thua đậm, cả hai phe chiến thắng lẫn chiến bại trong các cuộc thư hùng 1945, 1954, 1975 đều thất bại, hoặc trong chiến tranh hoặc trong hoà bình. Ta cần chấm dứt dựng chiến hào giữa đồng loại với nhau. Sự ngược đãi phe chiến bại sau 1975 là một thiệt thòi lớn cho đất nước, và chánh sách đó phải được công nhận là sai lầm, danh dự của những người bị cầm tù phải được phục hồi. Họ phải được coi là công dân một nước, y như mọi thành phần khác. Thứ nữa, nhà cầm quyền cần mau chóng tháo gỡ cái gông cùm của nguyên tắc lẩn thẩn theo đó “yêu nước là yêu xhcn”. Nó là một sự huyền hoặc thiếu lương thiện và một sự khinh miệt người dân khi ta cần xây dựng lại tinh thần hợp quần trong dân tộc.

Thứ hai, ta phải khôi phục được tinh thần tự trọng dân tộc, tức là người một trong nước phải coi trọng lẫn nhau. Trong ý hướng này, ta phải ngăn ngừa một phản ứng khá phổ biến là coi thường đồng bào mà e sợ ngoại quốc. Chẳng hạn, cứ giữa người mình với nhau thì kỷ luật lỏng lẻo, dễ coi nhẹ khinh thường, ưa hiếp đáp hoặc lường gạt, có khi còn biện bác với châm ngôn “ngoài thì là lý nhưng trong là tình” bằng một sự vô tình tàn nhẫn. Trong khi với người ngoại quốc thì ta lại kỷ luật và thành tín một phép. Hiện tượng trên có được thấy đâu đó ở tại nước ngoài, khi cộng đồng ta giao tiếp với các sắc dân hoặc chính quyền bản xứ của nước khác và có dịp đối chiếu. Một dân tộc sẽ không thể nào vững mạnh khi thiếu tinh thần tự trọng và hợp quần. Một dân tộc mà cứ phải nhờ cậy người ngoài mới có được kỷ luật bên trong cộng đồng thì dẫu chẳng bị ngoại xâm cũng vẫn là nô lệ.

Về dài, sự kiện là tiến bộ xã hội sẽ đào sâu khoảng cách giữa các thành phần khác nhau là một điều khó tránh nên ýthức liên đới và sự hợp quần lại càng cần thiết. Trong lịch sử cận đại của nhân loại, những quốc gia nào mà biết bảo vệ tính liên đới và hộp nhập trong xã hội, nhờ phát huy những sắc thái văn hoá đặc thù của họ, đều là những nước vừa phát triển nhanh, vừa có sự ổn định ở bên trong. Trường hợp của Đức, Áo, Thuỵ Sĩ hay Nhật Bản, Đại Hàn, với cách biệt lợi tức khá hẹp giữa thành phần giàu có và đại đa số còn lại, là một tấm gương sáng. Họ có tinh thần quốc gia dân tộc, và thành công trong một thế giới mà ranh giới quốc gia đang tan loãng. Gần gũi với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, ta cũng có những trường hợp đáng suy ngẫm như tinh thần hợp quần của người Hoa hải ngoại: dù mang tên đã Âu Hóa, sống tại bất cứ quốc gia nào, ở mọi vị trí cao thấp, họ vẫn có tinh thần liên đới và tương trợ bền vững, rõ là có khác với tinh thần của dân ta ở nước ngoài.

Khi xét tới hoàn cảnh của từng thành phần, ta biết là trong khi đa số người Việt còn xoay trở với những vấn đề cổ lỗ của một xã hội nông nghiệp với những thói quen suy nghĩ có tính chất tiền công nghiệp thì không thiếu người Việt Nam có trình độ khoa học kỹ thuật chẳng thua kém gì những sắc dân của các nước hậu công nghiệp tiến bộ nhất. Trong khi mọi ngành khoa học kỹ thuật tiên tiến như điện toán, viễn liên không gian, trí thông minh nhân tạo, người máy tự điều … ta thấy có nhiều chuyên gia gốc Việt Nam phục vụ ở những vị trí rất cao. Những trường hợp này là điển hình của thành phần chuyên gia toàn cầu, thành phần thứ ba vừa nói ở trên. Niềm hãnh diện về người Việt Nam đã thành công ở nơi khác, cho xã hội khác, dĩ nhiên không là một điều xấu, nhưng chưa là một đóng góp thiết thực cho dân tộc. Khi xét tới hoàn cảnh của đại đa số còn vất vả ở phía sau, chúng ta muốn là sự tiến bộ và kết quả du nhập kỹ thuật (chuyển giao kỹ thuật) phải được ứng dụng và khuyếch tán cho cả xã hội.

Người ta phải được tự do học hỏi để mở mang tầm hiểu biết của mình, và giúp cho sự hiểu biết của dân tộc. Chẳng những việc được ra ngoài tu nghiệp nên mở rộng cho càng đông người càng hay mà cả nạn đầu cơ kiến thức (một hiện tượng chậm tiến trong những xã hội mà thông tin và sự hiểu biết cũng là một đặc quyền vì đem lại đặc lợi) cùng phải chấm dứt. Chỉ có tự do tư tưởng và chính trị mới giúp ta mở rộng được tinh thần liên đới và tương trợ nói trên.

Dân một nước phải chia sẻ chung một niềm tự hào và một tinh thần tương trợ trong ý nghĩ đó.

Nguyên tắc có vẻ lý thuyết và vu vơ chính là một tinh thần chỉ đạo cần thiết cho chính sách kinh tế quốc gia. Người dân phải làm giàu và thành công trong sự làm giàu. Nhưng kết quả của thịnh vượng cho mình cũng phải tạo ra điều kiện thịnh vượng cho đồng bào mình, trước hết là qua chánh sách thuế khóa và xã hội, sau đó là qua những nỗ lực của các tổ chức xã hội, tôn giáo hay chuyên nghiệp của cộng đồng, nhằm yểm trợ những ngành quan yếu cho quốc gia và đồng bào là giáo dục, huấn nghệ và y tế.

Tinh thần trên cũng phải vượt qua những ranh giới sắc tộc để bao trùm lên mọi người dân từ bao lâu nay đã cùng sinh hoạt trên một lãnh thổ và cùng chia sẻ những gian lao vinh nhục của đất nước. Tinh thần kỳ thị các sắc tộc thiểu số và chánh sách phát triển thiếu cân đối hoặc bất công với những vùng cao nguyên Trung Phần và Tây Nguyên Bắc phần là những điều phải tránh. Đó là ta chưa nói tới những hậu quả thực tế về mặt an ninh và trật tự trong một bối cảnh phân hóa đang thấy xảy ra ở các nước khác.

Nhà cầm quyền phải có chánh sách thuế khóa chặt chẻ là đã đành (thuế suất không phải là cao mới là chặt mà phải thu cho đủ và cho đúng), mà còn phải có chánh sách thuế khóa tiến bộ và chánh sách phát triển vùng quân bình. Đồng thời nhà cầm quyền cũng phải mở ra những điều kiện pháp lý thuận lợi để phát triển các tổ chức ngoài chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng. Phản ứng thủ cựu, e dè là những đoàn thể xã hội sẽ gây ảnh hưởng cạnh tranh với chính quyền là một phản ứng lạc hậu, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Nó cũng phản dân tộc như thói trốn sâu lậu thuế khi thuế khoá không còn là một khí cụ bóc lột mà là một nghiã vụ xã hội. Điều kiện cần thiết ở đây là phải xây dựng lại tinh thần tín nhiệm giữa dân và nhà nước.

Người Việt ta có những đức tính truyền thống có lợi cho tinh thần liên đới và xả kỷ như “lá lành đùm lá rách”; “người trồng cây hạnh người chơi, ta trồng cây đức để đời mai sau” … Nếu từ trên chí dưới, từ trong ra tới ngoài, ta cố gắng gìn giữ và thành thật phát huy, đồng đô la và máy điện toán vẫn khó có thể xóa được. Nhưng, như trong mọi địa hạt khác, lời nói và việc làm phải đi đôi, nếu không, con trẻ sẽ chỉ học gương xấu trước mắt mà thôi. Sự tương phản giữa lời hoa mỹ và việc tồi tệ chỉ nuôi dưỡng chủ nghiã đểu cáng (chủ nghiã “khuyển nho”, cynicism), tính đa nghi và óc mánh mung chụp giựt.

Độc Lập Dân Tộc Là Cạnh Tranh Thắng Lợi

Tinh thần dân tộc đã chẳng là tinh thần tự cô lập, trong khuôn khổ kinh tế quốc tế, nó cũng không phải là tinh thần bảo vệ ngoại thương.

Ngày nay, mọi người đều hiểu là nền độc lập không đi đôi cùng sự tự cô lập. Chánh sách đóng cửa không giao tiếp với thế giới bên ngoài chỉ là sự độc lập trong thoái hóa và nghèo khốn. Một xã hội nghèo khốn và thoái hoá thì chẳng bị xâm lăng cũng tan rã. Chúng ta đã đi qua giai đoạn đó, nhưng, trong thế cạnh tranh ngày nay, người ta vẫn có thể rơi vào một trạng thái khác của phản ứng tự cô lập. Đó là phản ứng kiểm soát mậu dịch và hạn chế ngoại thương với những lý do như để bảo vệ chủ quyền quốc gia, công bằng xã hội hoặc kỹ nghệ nội địa.

Trong phần dẫn nhập, ta có nói tới quy luật được/thua của đầu tư tài chánh, nhưng cũng có nói là trong nhiều mối quan hệ kinh tế khác, cái được của người này không nhất thiết là cái thua của người khác. Ngoại thương là lãnh vực tiêu biểu mà cả đôi bên đều có thể có lợi trong trường kỳ. Nếu e sợ là mình cạnh tranh thua kém và dựng rào quan thuế để bảo vệ hàng nội địa, hoặc hạn chế nhập cảng để tránh thua thiệt, hoặc chỉ nhắm vào chánh sách thay thế nhập cảng làm lực phát triển, ta sẽ gây cho mình nhiều bất lợi trong lâu dài.

Trước hết, quy luật “khó người khó ta” khiến các nước khác cũng sẽ có những phản ứng bảo vệ tương tự đối với hàng hoá Việt Nam. Sau đó, nếu ta có những điều kiện khó khăn và bất công, người ta sẽ đầu tư ở nước khác. Khi phát triển mậu dịch là một nhu cầu chiến lược cho đất nước, ta sẽ phải nghĩ tới xuất nhập cảng trên cả hai vế: mục tiêu của xuất cảng chính là để nhập cảng những gì cần thiết cho phát triển. Khi chỉ nhắm vào việc hạn chế nhập cảng, ta sẽ bị phản ứng của các nước khác, hàng hóa của ta sẽ khó bán ra ngoài và chính kinh tế của Việt Nam tức là giới tiêu thụ và dân chúng mới là nạn nhân chung cuộc.

Tinh thần bảo hộ mậu dịch và kỳ thị hàng ngoại hóa còn khiến cho công nghiệp nội hoá không phát triển và khó cải tiến vì không bị cạnh tranh. Kết quả vẫn là sự thiệt thòi cho người tiêu thụ để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong những ngành non yếu. Nếu ta không mở cửa cạnh tranh và lấy kỷ luật của kinh doanh quốc tế làm khuôn khổ hoạt động cho mình thì sẽ chẳng bao giờ có kỷ luật và kiến thức quản trị theo kịp nước khác. Vì vậy, ý niệm ái quốc trong ngoại thương là điều cũng cần được minh định lại cho rõ, cho có lợi cho dân tộc.

Vấn đề rất dễ gây xúc động cho người dân trong nước khi ta nhớ tới tình trạng cạnh tranh của hàng Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc và phía Tây Nam. Nạn buôn lậu là một vấn đề của hệ thống phối hợp pháp quyền quá lỏng lẻo khiến công quỹ bị thất thâu vì quan thuế, ta cần sửa lại thuế biểu cho thực tế và gia tăng khả năng kiểm soát tại các cửa khẩu. Nhưng, rộng lớn hơn, ta cần xét tới khả năng sản xuất và cạnh tranh của mình đói chiếu với người. Nếu giá thành của họ thấp – thấp hơn hàng hoá của các nước Đông Á và Việt Nam – vấn đề là thuộc phạm vi giải quyết của chúng ta, để cải thiện năng suất và giảm giá thành cùng nâng cao phẩm chất hàng nội hóa. Giữa nỗ lực kiểm soát và ngăn chặn hàng ngoại với nỗ lực cải thiện hàng nội, việc cải thiện khả năng sản xuất của ta luôn luôn có lợi hơn trong trường kỳ.

Phản diện của khía cạnh trên có nghĩa là tinh thần dân tộc phải là tinh thần cạnh tranh thắng lợi. Đã không đóng cửa và cũng chẳng có thể dựng hàng rào hạn chế trao đổi ngoại thương, ta sẽ phải mở cửa ganh đua và ganh đua với ý chí quyết thắng. Ngoài tinh thần hợp quần và liên đới, ý chí đó đòi hỏi cả phản ứng tự chế để tránh những chọn lựa cực đoan, tinh thần cần kiệm để có phương tiện tự chủ hầu không lệ thuộc vào ngoại viện.

Trong phạm vi này, ta có thể học được nhiều điều bổ ích ở ba trường hợp được gọi là phép lạ kinh tế. Đó là Nhật Bản, Tây Đức và Đại Hàn.

Cả ba đều ngoi dậy trên tro than của chiến tranh sau khi đã bị cai trị bởi các chế độ tập quyền; cả ba đều chọn lựa con đường kinh tế tự do thay vì chỉ huy; cả ba đều thận trọng cải tổ theo khuynh hướng tiệm tiến, với một guồng máy hành chánh công quyền và những định chế hữu hiệu được xây dựng như một ưu tiên của việc cải tổ. Quan trọng nhất, các nước nói trên đều biết tự chế nên không nóng vội đi vào những giải pháp kinh tế và chính trị cực đoan.

Tại Nhật, người ta không đem Nhật Hoàng ra xử, mà vẫn duy trì chế độ quân chủ làm nền tảng hòa đồng tinh thần cho cả dân tộc; người ta ưu tiên ổn định trật tự xã hội và dồn sức nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nước bằng cách cải tiến bộ máy chính trị và hành chánh, người ta thiết lập ra những cơ chế quản lý kinh tế, sử dụng ngoại viện hợp lý để sớm khỏi lệ thuộc vào ngoại viện. Tại Đức cũng vậy, việc xây dựng một nền móng luật pháp và hạ tầng cơ sở sản suất đã là một ưu tiên, nhờ đó mà tư doanh Tây Đức có guồng máy sản xuất và nhân sự khai thác được lợi thế ngoại thương. Hơn mười năm sau, tới lượt Đại Hàn dưới sự lãnh đạo của chính quyền Phác Chánh Hy. Đại Hàn cũng chủ động tiến hành cải tổ bằng một guồng máy công quyền hữu hiệu và liêm chính, bằng tinh thần cần kiệm khắc khổ và bằng một hệ thống quản lý kinh tế sáng suốt yểm trợ các đại tổ hợp kỹ nghệ và xây dựng chinh phục các thị trường quốc tế. Sau chiến tranh Việt Nam, vượt nước ta vài chục năm, Đại Hàn đã thành nước công nghiệp xuất cảng.

Cả ba đều không cải tổ bằng đường lối hoàn toàn tự do mà còn đặt ưu tiên xây dựng tinh thần liên đới bằng mức sinh hoạt tối thiểu bảo đảm cho mọi người để ôn định xã hội (chánh sách thuế khóa tiến bộ). Căn bản nhất, những thành viên trong nền kinh tế đó – tức là chánh quyền, tư doanh, nghiệp đoàn và giới tiêu thụ – đều có tinh thần trách nhiệm và kỷ luật, san xẻ đồng đều những hy sinh, khi phải nín thở qua sông.

Bất cứ một sự thể nào cũng có mặt trái của nó: từ những khó khăn của Nhật Bản và Đại Hàn nổi rõ từ vài năm trở lại đây, ta cần thấy tình trạng xơ cứng và trì trệ của một guồng máy hành chánh công quyền, dù là vững mạnh khi được xây dựng mấy chục năm trước, nếu không có sự cải thiện và hiện đại hóa. Giữa nhu cầu ổn định để phát triển và cải tiến cũng để phát triển, ta phải tìm ra mức dung hoà hợp lý. Nếu trong thập niên tới, ổn định để phát triển khả năng cạnh tranh là một nhu cầu chiến lược, thì việc xây dựng một bộ máy công quyền có khả năng phối hợp và cải tiến linh động vẫn là một nhu cầu trường kỳ hơn.

Chúng ta biết là kế hoạch kinh tế kiểu tập trung xã hội chủ nghĩa đã thất bại, nhưng điều sai lầm không kém là xả cảng cho thị trường mặc sức tung hoành như một số chuyên gia ngoại quốc hoặc định chế quốc tế khuyến cáo. Nhà nước cần một nỗ lực dự phóng, hoạch định và phối hợp các ngành trong một viễn ảnh lâu dài để tạo điều kiện cho tư doanh nước nhà có thể phát triển và cạnh tranh thắng lợi với thiên hạ. Chánh sách quốc gia sẽ phải coi việc nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế quốc dân là một mục tiêu chiến lược trường kỳ. Cần nhắc lại chính quyền không kinh doanh và không có chức năng làm giàu, đó là việc của dân chúng. Chính quyền cần yểm trợ tư doanh lần lượt khắc phục các chướng ngại để trở thành những lực lượng kinh tế vững mạnh.

Trong chiều hướng đó, quan niệm có tính chất “hữu vi” của một chánh sách phát triển quốc gia phải được thận trọng cân nhắc. Việt Nam cần có một chánh sách phát triển dựa trên những mục tiêu chiến lược vạch sẵn cho một hai thập niên tới. Chánh sách này không nhắm vào việc giới hạn tư doanh mà la yểm trợ tư doanh trong những ngành thiết yếu nhất của đất nước, để sau giai đoạn năm năm, rồi mười năm, mười lăm năm, Việt Nam lần lượt chinh phục những lãnh vực sản xuất có giá trị đóng góp (giá trị gia tăng) ngày một cao.

Trong khuôn khổ kinh tế mở rộng, yêu nước ngày nay không đơn giản là chỉ dùng hàng nội hóa, chỉ tuyển dụng công nhân Việt Nam hoặc hô hào tẩy chay các cơ sở kinh doanh của sắc dân khác. Yêu nước là khiến người Việt Nam có năng lực kỹ thuật hay tài chánh tham dự vào tiến trình sản xuất và phát triển – trong phạm vi kinh doanh của một xí nghiệp hay trên địa hạt kinh tế của toàn cầu – ở những vị trí ngày một cao hơn. Những lời báo động hoặc khẩu hiệu chống đối thế lực kinh doanh của người Hoa ngày nay – hoặc của người Mỹ người Nhật ngày mai – chỉ là phản ứng tiêu cực của sự bất lực nếu không dẫn tới những nỗ lực thăng tiến cho người Việt Nam trên thương trường.

Tổng kết lại, nội dung của những ý niệm dân tộc ngày hôm nay thực ra cũng không xa lạ gì với nếp văn hóa của dân ta: tinh thần liên đới trong cộng đồng quốc gia, tinh thần cởi mở với tha nhân, tinh thần tự chế và cần kiệm, tinh thần cầu tiến và tự cường. Chỉ có một yếu tố tương đối mới, đó là vai trò yểm trợ của chính quyền để dân chúng có khả năng cạnh tranh cao hơn. Ý niệm độc lập dân tộc trong khuôn khổ kinh tế thị trường chính là khả năng cạnh tranh đó. Trong hoàn cảnh hiện nay, nhà cầm quyền đang giữ một trách nhiệm rất lớn khi không dám tin vào dân và lại chủ quan tự cho mình vai trò thay dân cạnh tranh với thiên hạ bằng một guồng máy rời rã tơi tả.

*

Hơn sáu mươi năm trước, quãng một năm sau vụ sụt giá chứng khoán tại Nữu Ước nhưng khi lực lượng Quốc Xã nắm chính quyền tại Đức, trước khi khủng hoảng bùng nổ tại Mãn Châu, vào tháng Mười năm 1930, tờ Economist xuất bản tại London đã nhận định về tình hình thế giới với lời kết luận u ám như sau:

“Những thành quả kinh tế của loài người chúng ta đã vượt xa thành tựu chính trị. Trên địa hạt kinh tế, thế giới đang trở thành một đơn vị sinh hoạt hợp nhất. Trên địa hạt chính trị, thế giới không chỉ bị chia làm sáu bảy chục nước mà các nước còn bị phân hóa thành những đơn vị nhỏ hơn, nhiều hơn và ý thức quốc gia đang sôi sục nóng bỏng hơn. Mâu thuẫn giữa hai chiều hướng xoay chuyển trên đang dồn dập tạo ra những chấn động trong sinh hoạt xã hội của nhân loại”.

Mười năm sau, chiến tranh thế giới bùng nổ cũng từ chủ nghiã quốc gia mà ra. Trong nửa thế kỷ sau đó, nơi nào kinh tế phát triển trùm qua biên giới chính trị nơi đó người ta có sự thịnh vượng; nơi nào chủ nghĩa quốc gia dựng hàng rào ngăn cản trao đổi hoặc chủ nghiã cộng sản lập kế hoạch quản lý kinh tế là sản xuất tan hoang và đời sống dân chúng lầm than. Ngày nay, trong khi hình thái kinh tế hội nhập có tính chất toàn cầu đang phát triển mạnh hơn nhờ những tiến bộ về khoa học kỹ thuật thì phân hoá chính trị cũng lại nổi lên gay gắt hơn. Từ trong đế quốc Liên Xô đã sụp đổ ra tới các lục địa khác ở bên ngoài, ta đang chứng kiến hiện tượng nhiều quốc gia lớn nhỏ theo nhau phân hóa thành những đơn vị chính trị nhỏ hơn, nhiều hơn và không chỉ ý thức quốc gia mới sôi sục nóng bỏng mà cả tinh thần tôn giáo hoặc sắc tộc hay bộ lạc đều là những yếu tố tinh thần có khả năng huy động lớn. Với võ khí nhiều hơn, hiện đại hơn.

Nước ta đã nổi danh trên thế giới ở hai điểm cũng mâu thuẫn như hai chiều hướng đối nghịch trên: Việt Nam là anh hùng bi thảm của chủ nghiã dân tộc và cũng là một nước rách rưới tới mức mà độc lập trở thành điều mai mỉa. Những xoay chuyển của thế giới ở bên ngoài – và nhất là của Việt Nam ở bên trong – giữa những áp lực đối nghịch khiến người ta không thể không e ngại. Các loại chủ nghĩa cực đoan đi cùng tinh thần bùa chú chính trị và những hứa hẹn viển vông sẽ dẫn đầu đám rước thê lương của những bất mãn bị dồn nén, những khát khao bị ức chế, để đưa nước ta vào thế kỷ 21. Trong khi đó, nếu người ta lại chỉ ưu lo bị mất quyền lực khi chế độ thay đổi thì e rằng nước ta khó tránh được loạn.

Nguyễn Xuân Nghĩa

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ảnh minh họa: VNTB

Đừng vội mừng khi Chính phủ lại tăng lương dồn dập

Tăng lương cơ bản chỉ dành cho công nhân viên nhà nước và sẽ đem đến niềm vui cho một nửa đồng bào cả nước nhưng cũng [sẽ] làm cho một nửa đồng bào cả nước trong khu vực tư nhân và lao động tự do méo mặt. Lương tăng nhưng lạm phát cũng sẽ không đứng im hay chỉ trong tầm mục tiêu.

Vietnam Airline "cân nhắc" việc mua máy bay C919 Trung Quốc. Ảnh chụp trang nguoiquansat.vn

Tính mạng người dân Việt Nam không phải thứ để đem ra gỡ khó cho Vietnam Airlines

Theo thông tin từ nguoiquansat.vn đưa tin, do thiếu máy bay nghiêm trọng, Vietnam Airlines cân nhắc mua tàu bay từ Trung Quốc. Cụ thể ở đây là máy bay thân hẹp 919 mà Trung Quốc vừa ra mắt.

Theo tôi được biết, hiện C919 của Trung Quốc chưa được EU và Mỹ cũng như các quốc gia phát triển cấp phép bay và cấp chứng nhận an toàn hàng không. Theo các chuyên gia, có thể mất ít nhất vài năm nữa. Vậy nếu Vietnam Airlines mua thì chỉ bay nội địa sao? Và liệu tính mạng của người dân Việt Nam có được đảm bảo an toàn, hay chỉ đáng giá giải quyết khó khăn cho Vietnam Airlines.

Tình trạng đáng báo động, cán bộ nhà nước ngày càng giàu có, sống xa hoa bất thường so với mức lương nhận lãnh. Ảnh minh họa: FB Manh Dang

Có cần quan tâm đến thời cuộc hay không?

– Nếu bạn vẫn ung dung trả 100.000 đồng để mua xăng dù vẫn biết trong đấy chỉ có 45.000 đồng là giá xăng, nhưng có đến 55.000 đồng là thuế phí các loại, chưa kể đến yếu tố chúng ta là một quốc gia xuất khẩu dầu hỏa,

– Nếu bạn chấp nhận như lẽ đương nhiên khi con cái bạn rời ghế nhà trường mà không thể kiếm được việc làm, hoặc đi làm nhưng không thích ứng được với công việc vì sự đào tạo kém cỏi của hệ thống giáo dục,

-…

Ảnh minh họa: Foreign Affairs

Những bài học lịch sử về Nga của Tập Cận Bình

Là con trai của một người có liên quan nhiều đến quan hệ giữa đất nước mình với Moscow, Tập Cận Bình hiểu rõ lịch sử. Lịch sử đã dạy cho ông bài học về những nguy hiểm của việc vội vàng liên kết lẫn việc thù địch toàn diện. Giờ đây, Tập muốn được hưởng lợi từ chiếc bánh – tiến đủ gần đến Nga để gây rắc rối cho phương Tây, nhưng không quá gần đến mức buộc Trung Quốc phải phân tách hoàn toàn.