Ảnh Hưởng Tam Giáo Trên Tinh Thần Ngưòi Việt

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Trong phê bình văn học, bàn về ảnh hưởng của một nền văn học này lên trên một nền văn học khác có thể nói là một trong những vấn đề nhiêu khê nhất của nhân loại. Nếu ai cũng biết là văn học Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu đậm lên văn học cổ điển của Việt Nam thì đi vào chi tiết, rất khó gỡ ra ảnh hưởng của một tác phẩm như Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài nhân lên Đoạn Truờng Tân Thanh của Nguyễn Du: ảnh hưởng thì đã rõ nhưng ảnh hưởng tới đâu thì là cả một vần đề. Mà không gỡ được ra điều này, không làm tỏ tường được cái mức ảnh hưởng của tác phẩm trước lên trên tác phẩm sau thì câu chuyện giá trị và độc-đáo tính của Nguyễn Du và Truyện Kiều trở nên rất ’proplématique’.

Tương tự, đề tài tôi trình bày cũng không dễ chút nào. Ta vẫn hiểu Tam giáo là Nho, Lão, Phật, nhưng Nho giáo (hay còn gọi là Khổng giáo) chủ yếu là một triết lý xã hội, liệu có gộp cả triết lý Âm Dương hay Ngũ Hành hay Dịch Thuyết là những điều sau này được gán ghép vào với Nho giáo hay không? Thành thử trong một thời gian rất eo hẹp, tôi không thể có tham vọng đi sâu được vào bất cứ vấn đề gì mà đành phải phác họa một vài nét chính, chỉ mong sao đóng góp của mình không đến nỗi vô ích.

Ảnh Hưởng Nho Giáo:

Đến nước ta từ đời nhà Hán, Nho giáo được đẩy mạnh dưới thời Sĩ Nhiếp (187-226), người mà trong một thời gian rất lâu được coi là ’Nam Giao Học Tổ’. Nhưng Nho giáo đến thời này không còn là Khổng giáo nguyên thủy như được trình bày trong Luận ngữ với sự phụ diễn của Mạnh tử và Tuân tử nữa mà là Khổng giáo như đã được Hoài nam tử và Đổng trọng thư diễn dịch lại. Thế có nghĩa là những quan niệm chính của Khổng tử như Tam cương (quan hệ Vua tôi, Cha con, Vợ chồng), Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) hay Chính Danh vẫn còn giá trị nhưng giờ đây đã được ghép thêm các tư tưởng về kinh tế (như quan niệm ’Tỉnh điền’), chính trị (như chính quyền phải là ’nhân chính’, cai trị bằng lòng Nhân chứ không bằng cái Lợi, hoặc quan niệm người dân có quyền làm cách mạng để lật đổ một chính quyền hà khắc) và giáo dục của Mạnh tử như quan niệm ’Mệnh Trời’ trao cho một ông Vua hay một chính quyền của Hoài nam tử, hoặc quan niệm Vua (’Vương’ trong tiếng Hán) là ngang bằng với và ở giữa Trời và Đất của Đổng trọng thư. Tóm lại, đây là thứ Nho giáo rất tích cực, lạc quan (’Nhân chi sơ tính bản thiện’), dấn thân (’Xuất’ trong quan niệm ’Xuất, Xử’), chưa đến nỗi bị những quan niệm như Trung quân một cách mù quáng mà thui chột đi cái ý chí ra giúp người, giúp đời của người quân tử.

Cái Nho học đó cũng là một nền Khổng học như đã chịu ảnh hưởng của phe Pháp gia dưới thời nhà Tần với sự cải cách chữ viết và đo lường của Lý Tư (để quy củ) nhưng cũng lại học từ Tần Thủy Hoàng chính sách đốt sách (’phần thư’) và chôn học trò (’khanh nho’).

Một cuộc cách mạng văn hóa lớn như thế, do ngoại nhân mang đến và áp đặt lên dân ta, không thể không gặp một sức cản, thậm chí cả chống đối, rất mạnh từ phía nguời dân bản địa, nghĩa là cha ông ta và nhất là giới phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ, còn quen với nếp sống bộ – tộc với nhiều rơi rớt của một chế độ mẫu quyền. Chẳng thế mà những người đầu tiên đứng lên chống lại chính sách đồng hóa này của nhà Hán lại là những phụ nữ Việt Nam, từ Hai Bà (làm vua 40-43 theo Công Nguyên) cho đến Bà Triệu (248 Công Nguyên). Những chính sách tàn bạo nhằm đồng hóa dân ta đã bị cưỡng lại một cách mãnh liệt, đưa đến những sự đàn áp đẫm máu mà cuộc hành quân của Mã Viện nhắm vào Hai Bà là điển hình (kể cả việc lấy trống đồng mang về Trung Quốc đúc thành ngựa đồng hay việc dựng cột ’Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt’.

Ảnh hưởng Nho giáo như vậy đối với Việt Nam là có cả mặt tích cực (ta nhận một cách vui vẻ và còn biết ơn nữa) lẫn mặt tiêu cực (ta chống, cưỡng, để bảo vệ nếp sống cổ truyền của tổ tiên để lại, và nhất là địa vị của người đàn bà trong xã hội Việt Nam). Tục thờ cúng Tổ tiên và một tập tục liên hệ, việc thờ phương các anh hùng dân tộc (Hai Bà, Đức Thánh Trần v,v. . ) , cũng có thể coi là một ảnh hưởng của Nho giáo hay ít nhất cũng là những tập tục được ý thức hệ Nho giáo củng cố.

Về mặt khoa học, ta cũng có thể kể thêm thuyết về Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hõa, Thổ) và các triệu trưng (điểm xấu hay tốt) có thể ảnh hưởng đến một triều đại của Đổng trọng thư.

Ảnh Hưởng Lão Giáo

Nhưng Nho giáo đến đời Hán thì cũng đã bị ảnh hưởng nặng nề của Lão giáo, tức cái học theo Lão giáo (hay còn gọi là Lão Trang vì Lão tử có một người kế thừa xuất sắc nơi Trang tử), còn gọi là Đạo giáo (cái học về Đạo). Song cái “Đạo” (một nghĩa là con đường”) mà vẽ ra được thì không thể là “thường đạo” (“cái đạo thường hằng, bất biến”): Đạo khả đạo phi thường đạo”. Vì sao? Vì bản chất của “Đạo” là biến. Nói cách khác, nghịch với Nho giáo luôn luôn chủ trương “Đạo” luôn luôn biến động, thay hình đổi dạng. Quan niệm Âm Dương không ai nói là của thuyết này, đặc biệt khi ta thấy qua lối vẽ hình Thái cực, trong đó cái Âm (màu đen) đã mang mầm móng của cái Dương (màu trắng) và ngược lại. Thuyết Âm Dương cũng quan niệm vạn vật không tĩnh mà lúc nào cũng tương tác; từ Không có có thể đẻ ra, đi đến Có và từ Có lại có thể trở về Không.

Vì thế cho nên những tư tưởng của Lão tử, rồi Trang tử, mới cho rằng “một sinh ra hai, hai sinh ra ba” và cứ như thế đến vô tận; rồi con người nhiều khi cũng không biết mình là bướm thật hay chỉ là bướm mơ làm người. Lối tư duy đó là một hệ thống tư duy mở, khác với những sự đóng khung của Nho giáo, và một đằng nó đã dẫn Lão Trang đi vào những tư tưởng thật cao siêu, bay bổng, nghĩa là đi vào con đường luyện kim huyền bí (alchemy), như luyện chì thành vàng hoặc nấu các thứ để đi tìm thuốc trường sinh. Cả hai con đường đều dựa trên quan điểm cho rằng: bản chất của một thứ này có thể chuyển đổi thành một bản chất khác (quan niệm động, không tĩnh, như nhộng thành bướm, nòng nọc thành ếch nhái, lăng quăng thành muỗi, nước thành nước đá hay ngược lại) và có thể thành một thứ tốt hơn.

Điều nghịch lý của Đạo giáo là một đằng thì tin như vậy, như luyện đan nghĩa là phải can thiệp vào tiến trình tự nhiên của vạn vật, của Tạo hóa, nhưng đằng khác lại chủ trương Vô Vi nghĩa là “không làm gì” cả, không can thiệp để khỏi làm hỏng, làm sai quấy đi sự chuyển động tự nhiên của vạn vật. Đừng mong biến mùa đông thành mùa hạ, hãy từ bỏ ý định đổi gái thành trai (hay ngược lại)! Nói cách khác, Đạo giáo tin rằng mọi sự (trong đó có vạn vật) có cái lô gích tự tại của nó, ta không làm gì để thay đổi, uốn nắn nó theo ý ta được. Trái lại, nếu ta muốn thành Tạo hóa để cưỡng lại cái lô gích tự tại đó thì tất yếu ta chuốc lấy phần thất bại về ta.

Ảnh hưởng của Lão giáo vào Việt Nam có thể thấy trong hơn một cách. Ở cách cao thì đạo Lão là đạo của người quân tử khi rút lui khỏi chính trường: một ông quan khi về hưu (’xử’ trong quan niệm ’xuất, xử’) thường quay ra những thú vui như cầm, kỳ, thi, họa, chơi núi non bộ, câu cá hay du sơn, đi đây đi đó. Ở mức tiền khoa học thì đó là chuyện đi luyện đan. Ở mức bình dân thì người Việt dùng Lão giáo để bẻ quẹo, châm biếm những điều dạy trong Nho giáo, như ’Nhất Sĩ, nhì Nông / Hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sĩ’.

Về mặt chính trị, Lão giáo cũng dẫn đến quan niệm ’Vô vi’ hơi giống quan niệm laisser aller hay laisser faire của Pháp. Khi sư Pháp Thuận đáp câu hỏi của vua Lê Đại Hành (980-1005) về cách trị dân. ’Vô vi cư điện các / Xứ xứ tức đao binh’ (’Cứ theo chính sách vô vi, không can thiệp ở nơi điện các (nhà Vua) thì tất tất mọi nơi đều ngưng, không còn đao binh’), là ông đưa ra một quan điểm Lão giáo, không phải của Phật giáo (1). Một bài học đích đáng cho nhiều chính quyền ngày nay ở các nước, kể cả một nước văn minh như Mỹ, Pháp, Anh và nhất là ở một nước nặng thói nhũng nhiễu dân như ở Việt Nam ngày hôm nay.

Ảnh Hưởng Phật Giáo

Phật giáo đến Việt Nam bằng hai con đường, đường biển từ Tây trúc (Ấn Độ ngày nay) từ Nam lên và đường bộ sau khi đã vào Trung Hoa, từ Bắc xuống. Thế có nghĩa là ban đầu, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Phật Giáo gần như nguyên thủy trong khi Phật Giáo mà đi qua Trung Quốc rồi mới sang ta là bắt buộc có sự sàng lọc, điều chỉnh trước của Phật Giáo Trung Nguyên. Điều chắc chắn là đến cuối thế kỷ II thì Mâu Bác, người theo Đạo Phật ở Trung Quốc, khi chạy loạn sang Giao Châu (khoảng 180 theo C.N) đã bắt gặp đạo Phật ở đây để rồi theo đạo. Ông có quyển Lý hoặc luận nhằm trả lời những điều người đương thời thường chê trách Phật Giáo, và một trong những điều đó là quan niệm ’xuất gia’ (bỏ nhà , bỏ gia đình để đi tu) của nhà Phật mà tổ tiên chúng ta xem là trái với lẽ thiên nhiên. Dù như Mâu Bác đã trả lời khá uyên bác về mặt này, song Phật Giáo Việt Nam sau này vẫn phải thỏa hiệp với truyền thống gia đình của Việt Nam. Có lẽ vì thế mà Phật Giáo Việt Nam là truyền thống Phật Giáo độc nhất mà tôi biết có những chức tương đương với vai vế trong gia đình, một tộc họ: sư cụ, sư ông, sư bà (2), sư bác, sư cô, chú tiểu.

Phật giáo Việt Nam về sau có những dòng Thiền như Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), nhập Việt vào năm 580 (ở chùa Pháp Vân), và Võ Thông Ngôn, sang nước ta vào năm 820. Hầu hết các sư thuộc về đời nhà Lý (1010-1225) là các thiền sư nhưng phải đợi đến đời Trần Thái Tông (1218-1277), tác giả Khóa Hư Mục, Trần Quốc Tảng( tức Tuệ Trung Cư Sĩ (1230-1291), tác giả Phóng Cuồng Ca, và Trần Nhân Tông (1258-1308), người sáng lập ra phái Phật giáo nhập thế Trúc Lâm Yên Tử, thì Thiền học Việt Nam mới đạt đến cao điểm của nó. Chúng ta phải đợi hơn 700 năm, đến cuối thế kỷ XIX với phái Bửu Sơn Kỳ Hương và thế kỷ XX với việc sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh Giáo Chủ (1939), chúng ta mới có một học phái Phật giáo riêng của người Việt. Hơi giống Trúc Lâm Yên Tử, Phật Giáo Hòa Hảo cũng là một nền Phật giáo nhập thế, do đó nên có ảnh hưởng chính trị khá lớn ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong các phái Thiền Việt Nam, chúng ta còn có phái Lâm Tế và phái Thảo Đường bên cạnh những trường phái trên.

Chúng ta không rõ bao giờ Tịnh Độ Tông đi vào Việt Nam nhưng ta cũng có thể ức đoán là vào khoảng thế kỷ XI-XII. Vì cách tu tập tương đối đơn giản của Tịnh Độ Tông (chỉ cần nêu tên và tụng Phật A Di Đà) nên chẳng bao lâu, phái này lan tràn ra khắp nước để ngày nay thường lẫn chung với các phái Thiền Tông để thành một nét đặc biệt của Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt phổ biến trong những thời buổi loạn ly. Chúng ta bước vào các chùa Việt Nam, câu đầu tiên thường là câu: ’Nam Mô A Di Đà Phật!’

Bàn về ảnh hưởng của Phật giáo đối với Việt Nam thì nói bao lâu cũng không hết nhưng bỏ sang bên những vấn đề định chế, chùa chiền, tu tập (những vấn đề tri thức luận như đốn ngộ hay tiệm ngộ v.v. . ), hay ảnh hưởng trên văn chương, âm nhạc, mỹ thuật, thẩm mỹ.. . thì có lẽ rõ nhất còn lại là một chữ ’tâm’. Như Kinh Ruột Dhammapada cho thấy, ’mọi nghiệp khởi tự tâm’ . Cho nên hệ luận là Phật cũng ’tại tâm’. ’Phật khẩu, Tâm xà; là một sự bội phản của đạo Phật. Và trong cái thực tiễn của cuộc sống, người Việt đã biết, đã hiểu rõ từ lâu :’Thứ nhất là tu tại gia/ Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa’.

Vì Phật giáo gần trái tim của con người Phật tử, thậm chí nằm ngay trong tim nên con người ấy có thể đi đến năm châu, tứ xứ vẫn mang theo được: hơn thế nữa, còn chia xẻ được với người nước khác (xem gương Đức Đạt Lai Lạt Ma và các thầy Tây Tạng). Nên Phật giáo Việt Nam, nếu đúng nghĩa, sẽ đem ’thân tâm thường an lạc’ và mục cười ra với đời và với thế giới. Chẳng thế mà người Phật tử Việt Nam đi đến đâu cũng cố xây chùa : ’Mái chùa che chở hồn dân tộc’.

Tam Giáo Đồng Nguyên

Đạo Phật thịnh hành ở Việt Nam có cả nghìn năm, đặc biệt nở rộ dưới đời nhà Lý và một phần lớn đời Trần (1225-1400), trước khi vị trí của nó bị lung lay. Ngay khi Nho học đã đạt được thế thượng phong vào cuối đời nhà Trần, nó cũng không đẩy hẳn được Phật giáo sang bên. Chính vì thế mà thay vì để cho thành một xung đột nguy hiểm, người ta đã tìm cách hòa giải giữa cả ba luồng tư tưởng mà ngưòi Việt ta cưu mang thời bấy giờ. Từ đó mới nảy sinh ra quan niệm ’Tam Giáo Đồng Nguyên’, cả ba đạo Nho – Phật – Lão, đều cùng một nguồn gốc mà ra. Vẫn biết đây là một sự hôn phối có phần nào gượng ép nhưng như đạo Cao Đài dựng ra cách đây gần một thế kỷ (vào năm 1919) , la raison politique étant la meilleure, người ta đã sẵn sàng gạt bỏ đi những dị biệt giữa các hệ thống tư tưởng cốt nhằm đi đến một sự đồng thuận mà bao giờ cũng là đảm bảo cuối cùng cho sự trường tồn của quê hương, đất nước Việt Nam: ngày nào người Việt còn chưa nhìn được ra những lợi ích của dân tộc và Tổ Quốc phải vượt được lên trên hết, trên cả những tín ngưỡng thiết thân đối với từng cá nhân trong chúng ta thì ngày đó, đất nước còn nguyên nguy cơ chia rẽ và toàn dân, một lần nữa, lại đứng trước hiểm họa bị ngoại bang thao túng để một lần nữa có thể mất đi nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta.

Một Vài Hệ Luận:

Từ những nhận định tóm lược trên, thiết tưởng chúng ta có thể rút ta được một số kết luận, hay ít nhất cũng hệ luận, từ ảnh hưởng Tam Giáo đến với tiến trình dân chủ hóa của dân tộc và đất nước chúng ta.

Trong ba hệ thống tư tưởng và tín ngưỡng nói trên thì đã có hai hệ thống mở là Đạo Giáo và Phật Giáo. Điều này, gốc của mọi sự, sẽ cho phép ta hòa đồng dễ dàng hơn với những cái gì ’mới’ của nhân loại đem lại : Thiên Chúa Giáo sau này (bắt đầu từ thế kỷ XVII) hay những tư tưởng hiện đại, hậu hiện đại đến với ta trong thế kỷ XX, và những trào lưu mới hơn nữa như các phong trào dân chủ, nhân quyền, môi sinh, các quan niệm toàn cầu hóa, xã hội thông tin, kinh tế tri thức.

Để cho hơn một hệ thống tư tưởng/ý thức hệ có đất đứng thì những hệ thống ý thức hệ còn lại phải chấp nhận thỏa hiệp, ’conbine’ với nhau – chứ không tiêu diệt nhau. Vấn đề này đã đặt ra từ thời Mâu Bác khi ông tìm cách giải thích là Phật giáo tuy (theo ông) là siêu việt hơn so với Khổng giáo và Đạo giáo, vẫn không tìm cách khứ triệt đi hai hệ thống tư tưởng kia. Quan niệm ’Tam Giáo Đồng Nguyên’ (3) cũng như Đạo Cao Đài sau này, là một nỗ lực hệ thống hóa tính cách đa nguyên của ba tôn giáo khác nhau. Đây là một tinh thần rất Việt Nam : vừa mở rộng để nhận tất cả vừa không để cho sự cạnh tranh giữa các hệ tư tưởng trở thành hỗn độn, xung đột, chém giết nhau mà cần phải có quy luật để ’sống chung hòa bình’ với nhau. Câu giải đáp ở đây đương nhiên chỉ có thể là một hệ thống chính trị mở, nghĩa là một nền dân chủ thực thọ, đúng nghĩa, tôn trọng cái đa nguyên trong cuộc sống.

Tôn giáo là đồng nghĩa với chiều sâu tư tưởng. Chuyện ’vô vi’ của Đạo giáo, chẳng hạn, là một suy nghĩ có căn bản, giống như quan niệm laisser faire trong kinh tế học, nó không phải là một thứ tư duy lười biếng. Chính vì Đạo giáo không tin ở sự can thiệp vào quá trình thiên nhiên của vạn vật mà nó không thể đồng ý được với quan niệm ’đốt giai đoạn’ của chủ nghĩa Mác-xít ấu trĩ. Vì làm thế, theo Lão Trang, chỉ có thể mang lại hậu quả tự nhiên là chính mình ’ tự đốt đít mình’. Thay vì tiến lên ’đình cao trí tuệ loài người’ thì ta sẽ dễ đổ ’ từ người xuống vượn’ trong một thời gian kỷ lục !

Nhiều cái ta tưởng mới như ’duy vật biện chứng’ hay ’duy vật lịch sử’ phải đợi đến thế kỷ XIX, Marx ở Tây Phương học theo Hegel mới nhìn ra cái biện chứng pháp của sự vật và lịch sử, song Lão Tử và Kinh Dîch đã trông ra điều này từ trước vài nghìn năm mà chi tiết hóa hơn nhiều (hãy xem Bát Quái và 64 quẻ).

Cuối cùng, do quan niệm ’Tam Giáo Đồng Nguyên’ của Việt Nam nên ai cũng vẫn giữ được tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, ’hồn ai nấy giữ’ tránh đưọc tính trạng ’ hồn Trương Ba, da hàng thịt’ là một tình trạng xảy ra quá thông thường trong thế giới Cộng sản, nói một đằng song nghĩ và làm theo một nẻo khác – tránh được hiện tượng ’alienation’ hay ’ tha hóa’, căn bệnh số một mà Marx tưởng chỉ có các xã hội tư bản mới có – hóa ra đó là bệnh số 1, bệnh hiển hiện nhất của một xã hội Cộng sản.

Nguyễn Ngọc Bích` 2003


Chú Thích:

[1] Có người cho rằng chữ ’vô vi’ ở đây cần phải hiểu là “Niết Bàn” hay “Hư không” như ta thấy nó đã được dùng trong Lý Hoặc Luận của Mâu Bác. Và như thế lời khuyên của Đỗ Pháp Thuận dành cho vua Lê Đại Hành vẫn là một lời khuyên Phật giáo. Nhưng tôi cho đọc thế không đúng. Thời Mâu Bác, vì Phật giáo mới được du nhập vào Việt Nam nên ông mới phải dùng chữ của đạo khác ( Đạo giáo) để diễn tả những quan niệm mới của Phật giáo. Chứ đến hơn 800 năm sau. Phật giáo đã dư thừa từ ngữ riêng mình nên Pháp Thuận không còn lý do gì để dùng chữ của Đạo giáo mà nói đến quan niệm “Hư không” hay “Niết Bàn”.

[2] Theo G.S Đặng Đình Khiết thì cách xưng hô “sư bà” xưa kia không có ở miền Bắc, mãi sau này, nghĩa là trong thế kỷ XX, chúng ta mới nghe thấy quan niệm này phổ biến trong giới Phật giáo miền Trung và miền Nam.

[3] Có người chủ trương rằng “Tam Giáo Đồng Nguyên” (cả ba tôn giáo Khổng, Lão, Phật, đều cùng một nguồn gốc mà ra) chính thật là “Tam Giáo Đồng Quy” (cả ba tôn giáo đồng quy, cùng đi về một hướng). Nói cách bình dân thì tôn giáo nào cũng dạy làm lành, không giết người, không nói dối v.v. Song tôi cho “Tam Giáo Đồng Nguyên” vẫn đúng hơn vì quan niệm này là một quan niệm mở trong khi “Tam Giáo Đồng Quy” là một thứ suy nghĩ xuề xòa, ba phải, không quan tâm đến những căn bản giáo lý của từng tôn giáo. Thêm vào đó, người ta có thể hiểu “Tam Giáo Đồng Quy” là “quy về một mối”, một lối suy nghĩ đóng mà người Cộng sản rất ưa thích vì họ cho đó là lý do tại sao cần phải có một “Ủy ban tôn giáo nhà nước” (với một nhà xuất bản kinh kệ cho tất cả các tôn giáo v.v.) để làm việc đưa tất cả “về một mối” dưới sự dẫn dắt của Đảng (vô thần) mà họ cho là có tính cách tiến bộ hơn cả nên có quyền lãnh đạo.

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Thông báo (trái) của cơ quan an ninh điều tra Hà Nội bắt tạm giam bà Nguyễn Thúy Hạnh (phải) và áp giải bà từ nơi điều trị ung thư trở lại Trại tạm giam số 2. Ảnh: Sài Gòn Nhỏ

Tiếp tục giam bà Nguyễn Thúy Hạnh, Hà Nội muốn nói điều gì?

Hà Nội đã im lặng hành động, thay cho một tuyên bố sắc lạnh, rằng các tổ chức xã hội dân sự và các cá nhân liên kết với nhau sẽ không có giá trị gì với bộ máy đàn áp đang có quá nhiều lợi thế. Trước sự sững sờ của mọi người, ngày 22/3, công an đã tới viện pháp y tâm thần để đưa quyết định kéo dài thời gian tạm giam thêm đối với bà Nguyễn Thúy Hạnh, và áp giải bà từ nơi điều trị ung thư trở lại Trại tạm giam số 2.

Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, tuổi cao, sức yếu, và bị coi là ngày càng mất dần quyền lực. Ảnh minh họa: Hoang Dinh Nam/ AFP via Getty Images

Vì sao chính trường CSVN rối ren?

Trong bối cảnh ông Trọng tuổi cao, sức yếu, và quyền lực suy giảm đáng kể, chiến dịch chống tham nhũng có thể bị suy giảm. Có ý kiến cho rằng “chiến dịch chống tham nhũng đang dần thoát khỏi tầm kiểm soát của ông Trọng và hiện giờ, chiến dịch chống tham nhũng được điều hành trực tiếp từ ông Tô Lâm, bộ trưởng Bộ Công An,” là điều đã được cảnh báo trước.

Ảnh minh họa: FB Nguyễn Tuấn

Bạn bè trên cõi mạng

Về nhà tôi nghĩ hoài về hiện tượng fb. Rất nhiều bạn tôi chưa bao giờ gặp ngoài đời, mà chỉ qua fb. Cũng chẳng sao. Tình bạn không phải chỉ là tiếp xúc hay tay bắt mặt mừng, mà có thể là tiếp xúc bằng trái tim và tâm hồn. Vậy là hạnh phúc rồi.