Đông Âu và Việt Nam

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
JPEG - 21.6 kb
Phá vỡ bức tường ô nhục – 1989

Tháng 6 năm 1989, bắt đầu từ Ba Lan, trận bão “Dân chủ” đã thổi mạnh mẽ đến Đông Âu, quét sạch thành trì vô sản chuyên chính do Stlalin xây dựng vào những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến, tính đến nay đúng 15 năm. Trong 15 năm qua, từ những quốc gia cộng sản nằm trong gọng kềm của cựu đế quốc Liên Xô, khối các nước Đông Âu đã không chỉ tẩy xóa xong những tỳ vết vô sản mà còn bắt đầu bước vào hàng ngũ của 25 nước trong khối Âu Châu tiến bộ. Trận bão dân chủ đã xảy ra quá ngoạn mục, trong khoảng thời gian kỷ lục từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1989, nên nhân loại đã chỉ nhớ đến những cuộc xuống đường rầm rộ từ vài chục ngàn người rồi lên đến hàng trăm ngàn người như những giòng nước lũ đã đẩy các đảng cộng sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Đông Đức và Lỗ Ma Ni đi đến chỗ tự tan rã.

Thật ra thì trận bão nói trên chỉ là kết quả sau cùng của những cơn địa chấn đã ngấm ngầm bộc phát từ năm 1956, khi người dân Ba Lan và Hung Gia Lợi nổi dậy chống lại gọng kềm của Liên Xô, nhưng đã bị dập tắt bởi Hồng Quân Liên Xô, theo lời cầu cứu của các lãnh tụ cộng sản Ba Lan, Hung Gia Lợi vào lúc đó. Nói cách khác, để giành lấy thắng lợi dân chủ vào năm 1989, cuộc đấu tranh của người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lơi, Đông Đức.. đã trải qua 33 năm (1956 – 1989) với rất nhiều cam go và đầy thử thách.

Đương nhiên, cuộc cách mạng dân chủ tại các nước cựu cộng sản ở Đông Âu đã khởi sự vào lúc mà đế quốc Liên Xô rơi vào thế suy thoái toàn diện, không thể nào hành xử khác hơn là “làm ngơ” cho mỗi đảng cộng sản đàn em tự xoay xở lấy từ năm 1985, khi ông Gorbachev tung ra chính sách cởi trói và tái phối trí. Tuy nhiên, trong sự ’tự xoay xở” để sống còn, mỗi đảng cộng sản đã có những hành xử khác nhau trong cách tiếp cận với những quốc gia Tây Âu để vận dụng phương tiện từ bên ngoài nhằm giải quyết tình trạng kiệt quệ ở bên trong; nhưng nói chung, đã bị rơi vào bốn loại khó khăn, gần giống như nhau:

Thứ nhất là chính sách cải cách kinh tế đã dẫn đến tình trạng mất định hướng trong hàng ngũ lãnh đạo của các đảng cộng sản trong sự gằng co giữa mở rộng kinh tế để sống còn hay ôm giữ xã hội chủ nghĩa để củng cố quyền lực độc tôn. Tình trạng này đã đưa đến sự phân hóa cùng cực trong cấp lãnh đạo và tất cả đã tháo chạy khi những phong trào đối lập bao vây toàn bộ các công sở và đường phố.

Thứ hai là do những mầm móng sinh hoạt đa nguyên của xã hội xuất phát từ chính sách cởi trói của ông Gorbachev đã làm nảy sinh những khuynh hướng đối kháng một cách đa diện từ tôn giáo, văn hóa, từ thiện lên đến công đoàn, sinh viên… khiến cho bộ máy bạo lực mất dần khả năng kiểm soát và từ đó những thành phần thi hành bạo lực bị vô hiệu trước những cuộc xuống đường rầm rộ của quần chúng.

Thứ ba là những áp lực dưới nhiều hình thức từ bên ngoài đi kèm với các điều kiện cải tổ những luật lệ thương mại của các quốc gia Tây Âu, cũng đã làm cho các đảng cộng sản mất tinh thần và lúng túng đối phó. Những hỗ trợ về mặt thông tin để phá vỡ bưng bít, loan tải rộng rãi các cuộc xuống đuờng của quần chúng ở các nơi , những lên tiếng tố giác đàn áp nhân quyền, khủng bố chính trị đối với thành phần đối kháng từ các quốc gia trên thế giới, đã phần nào làm các nhân vật lãnh đạo đảng cộng sản ở các nước như bị “tứ bề thọ địch”.

Thứ tư là những cải tổ nửa vời cùng với sự rối loạn của thị trường đã tạo ra rất nhiều nan đề cho xã hội đổi mới, với rất nhiều tệ đoan xã hội đã xảy ra. Hậu quả là những hiện tượng tiêu cực này càng làm gia tăng thêm sự bất mãn của quần chúng, với những vụ khiếu kiện, đình công, lãng công, đánh đập cán bộ để trả thù .. đã xảy ra thường xuyên vào những giai đoạn cuối của cuộc cách mạng dân chủ.

Nói chung, bốn diễn biến nói trên là những đặc điểm đã góp phần đưa đến trận bão dân chủ đã xảy ra ở Đông Âu cách nay 15 năm. Vào lúc đó, Việt Nam đã chưa có những yếu tố “khó khăn” nói trên và nhất là lực lượng đối kháng còn quá yếu, nên đã không thể tạo ra những xoay chuyển lớn mặc dù tại Việt Nam lúc đó đã có một số người can đảm đứng lên đòi dân chủ đa nguyên. Nói cách khác, khi Đông Âu bộc phát thành những phong trào quần chúng đấu tranh vào năm 1989 thì Việt Nam chỉ mới xuất hiện một vài tiếng nói đòi dân chủ đa nguyên, trong khi quần chúng bị bưng bít toàn diện và toàn thể xã hội vẫn còn nằm im trong bóng tối chuyên chính. Nhưng ngày hôm nay, trận bão dân chủ của Đông Âu vào 15 năm trước đang bắt đầu thổi đến Việt Nam.

Mặc dù đảng Cộng sản Việt Nam tung ra chính sách đổi mới vào năm 1986, nhưng họ thực sự tiến hành kể từ năm 1991, khi chính thức áp dụng cơ chế thị trường, trên một xã hội nông nghiệp mang nặng dấu ấn nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Do đó, những tác dụng của chính sách đổi mới trên xã hội Việt Nam bắt đầu từ năm 1996 và đang có những dấu hiệu gây khó khăn cho Hà Nội, như đã từng diễn ra tại Đông Âu.

Thứ nhất là lãnh đạo Hà Nội hiện cũng đang rơi vào tình trạng mất định hướng như các đảng Cộng sản tại Đông Âu vào những năm 1987, 1988. Họ đang ở vào sự dằng co giữa hai con đường cộng sản và tư bản, trong khi lãnh đạo ở vào thế cá mè và thế đu giây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ càng càng căng thẳng. Tình trạng này khiến cho đảng và nhà nước rơi vào hoàn cảnh lúng túng và loay hoay với những chính sách vá víu, nửa vời làm nảy sinh thêm nhiều vấn nạn mới cho chính chế độ.

Thứ hai là những áp lực nhân quyền của thế giới ngày một mạnh mẽ, giúp cho phong trào đối kháng lớn mạnh, tạo ra nhiều điểm nóng gây lúng túng đối phó cho đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong xã hội đổi mới như nạn xì ke ma túy, mãi dâm, đạo đức suy đồi cũng là dấu hiệu tạo ra sự bất mãn lớn nơi quần chúng trong hiện tại.

Thứ ba là những cải cách do các áp lực của các quốc gia viện trợ và các nhà đầu tư ngoại quốc đã làm nảy sinh những mầm móng đa nguyên trong xã hội Việt Nam. Những mầm móng này là khởi điểm tạo ra những điểm tựa cho các tổ chức quần chúng xuất hiện và vượt ra khỏi khuôn khổ kiểm soát của chế độ.

Nhưng khác với Đông Âu, Việt Nam là một xã hội nông nghiệp mang nặng màu sắc phong kiến Á Đông, chưa từng có những kinh nghiệm đấu tranh quần chúng như các nước tại Đông Âu trước khi bị Stalin nhuộm đỏ, nên Việt Nam đòi hỏi nhiều nỗ lực tác động về ý thức tự do dân chủ trước khi tạo những sức bật của các phong trào quần chúng. Nhưng Việt Nam lại có một ưu điểm mà Đông Âu không có, đó là khối 3 triệu người Việt tỵ nạn tại hải ngoại, luôn luôn hướng lòng mình về Tổ quốc thân yêu. Tập thể 3 triệu người Việt tỵ nạn này không chỉ có nhiều tiềm năng về kinh tế, chất xám mà còn có rất nhiều kinh nghiệm trong sinh hoạt của một xã hội tự do dân chủ. Ngoài ra, khả năng vận động các áp lực quốc tế cho những vấn đề nhân quyền, tự do dân chủ của người Việt tỵ nạn đang tạo thành một lực đối đầu mạnh mẽ với chế độ Hà Nội trong các mối quan hệ với Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây Âu. Chính vì thế, với tiềm lực của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, chúng ta tin tưởng là sẽ hỗ trợ tích cực cho đồng bào quốc nội để không chỉ đấu tranh gỡ bỏ gông xiềng độc tài mà còn góp một phần quan trọng trong công cuộc canh tân và xây dựng đất nước.

Tóm lại, nếu cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu đã phải kéo dài 33 năm từ năm 1956 đến năm 1989 thì cuộc cách mạng dân chủ tại Việt Nam đã trải qua gần 3 thập niên tính từ năm 1975. Với những dấu hiệu đang gây nhiều lúng túng cho chế độ Hà Nội trong tiến trình mở cửa để thoát hiểm hiện nay, cùng với những nỗ lực đấu tranh của các lực lượng dân tộc trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng là cơn bão dân chủ sẽ thổi đến Việt Nam trong những năm trước mặt.

Lý Thái Hùng

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ảnh minh họa: Đinh Tấn Lực

Lại một cú hốt lớn?

Ở Việt Nam nhà nào chẳng tích cóp không nhiều thì ít có vàng trong nhà. Hỏi nguồn gốc xuất xứ của số vàng này từ đâu quả là đánh đố. Có gia đình vàng được để lại từ mấy đời trước, trao đổi qua tay với nhau lấy đâu giấy tờ, hoá đơn, hợp đồng…

Số lượng vàng không chứng minh được nguồn gốc xuất xứ rất lớn trong dân, sẽ dẫn đến các cơ sở sản xuất kinh doanh vàng cũng bị hệ lụy về việc không chứng minh được nguồn gốc xuất xứ với cơ quan quản lý nhà nước.
Bây giờ căn cứ vào luật do nhà nước đề ra để xử phạt, rồi tịch thu có phải là một cuộc chiếm đoạt?

Hình ảnh nhà sư Thích Minh Tuệ trên một trang mạng xã hội. Ảnh: Pháp Luật TP.HCM

Thật và giả từ bước chân thầy Minh Tuệ

Hình ảnh một hành giả mặc áo vá, đầu trần chân đất đi từ Nam ra Bắc thực hành phép tu hạnh đầu đà của Phật Giáo đang gây một trận động đất trong dư luận Việt Nam. Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngay lập tức phát ra thông báo khẳng định “người được mạng xã hội gọi là ‘Sư Thích Minh Tuệ’ không phải là tu sĩ Phật Giáo.” Oái oăm thay, lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của các vị chức sắc Phật Giáo quốc doanh lại góp phần phơi trần cái bản lai diện mục giả hiệu của chính họ.

Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ dược tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ hôm 15/5/2024

Hội nghị Thượng đỉnh Geneva về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16

Ngày 15/5/2024, tại Geneva, Thụy Sĩ đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16 (The 16th Annual Geneva Summit for Human Rights and Democracy).

Mục đích của Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ là đề cập đến tình trạng nhân quyền và đặc biệt là để hướng cộng đồng thế giới quan tâm đến một số trường hợp cần phải có sự can thiệp nhanh chóng để giảm đi những khổ nạn có thể xảy đến với các nạn nhân.

Hội nghị thượng đỉnh Geneva được tài trợ bởi một liên minh gồm 25 tổ chức phi chính phủ về nhân quyền từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đảng Việt Tân.

Từ trái sang phải: Trương Thị Mai - người vừa bị "cho thôi giữ các chức vụ," Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình và Đinh Thế Huynh. Ảnh chụp ngày 20/07/2016. Ảnh: AP - Hau Dinh

Việt Nam: Thêm một ủy viên Bộ Chính trị phải từ chức

Hôm qua, 16/05/2024, Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã bầu bổ sung 4 ủy viên sau khi một ủy viên khác là bà Trương Thị Mai phải từ chức và nghỉ việc.

Giữ chức thường trực Ban Bí thư và trưởng Ban Tổ chức Trung ương từ năm 2023, bà Trương Thị Mai như vậy là ủy viên thứ 3 trong Bộ Chính trị phải từ chức chỉ trong vòng hai tháng, sau Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong tháng Ba và Chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ trong tháng Tư.