Trường chuyên và triết lý giáo dục

Một lớp học bậc trung học phổ thông. Ảnh: Afamily
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Để tạm gác lại câu chuyện trường chuyên, tôi xin chia sẻ lên đây ý kiến của TS Dương Bích Hằng (Đại học Minnesota, Mỹ) thuộc Tổ chức khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global); chị cũng là đồng tác giả của cuốn sách rất đáng đọc “Giáo dục Phổ thông Việt Nam – chuyển biến và sáng tạo.” Ý kiến này được chị viết trong phần bình luận dưới bài “Hoa Kỳ không có trường chuyên” mà tôi chia sẻ từ TS Andrea Hoa Pham.

“Mình đồng ý với ý này của Thái Hạo: trường ‘chuyên’ ở Mỹ và VN ‘khác hẳn nhau về tính chất, tổ chức, cách thức vận hành và cả mục tiêu’ – vậy tiêu đề post có lẽ nên chỉnh chút xíu sẽ rõ hơn, ví dụ: Hoa Kỳ không có trường chuyên như Việt Nam.’

Thực tế có thể nhìn nhận thế này: chương trình chuẩn cấp tiểu bang (structured, standard curriculum) ở Mỹ hoặc một số quốc gia khác chỉ là một cái khung, từ đó các phòng giáo dục địa phương, trường và các giáo viên có thể áp dụng một cách linh hoạt, ví dụ như theo tiếp cận dạy học phân hóa hay cá nhân hóa – nhằm hướng tới đáp ứng cách học và nhu cầu học của từng học sinh.

Theo đó, song song với chương trình khung, có khá nhiều chương trình thiết kế riêng dành cho học sinh ‘đặc biệt’ (có thể là tài năng, có thể là khuyết tật, hoặc đơn giản là có nhu cầu thêm về khía cạnh nào đó). Từ đó, các đơn vị/nhà xuất bản ‘đua nhau’ phát triển học liệu giáo dục phục vụ cho các chương trình này vô cùng đa dạng…

Bản chất của nền giáo dục công (public education) ấy là phát triển năng lực của từng cá nhân, khai sáng tư duy, giải phóng sức sáng tạo mạnh mẽ và từ đó đóng góp vào một xã hội đề cao sự đa dạng – chứ không phải là tạo ra công cụ phục vụ cho phát triển kinh tế hoặc mục đích chính trị và kết quả là tạo ra những sản phẩm dập khuôn mang tư duy theo một định hướng.” (hết trích)

Ý kiến trên đây của TS Hằng đã nêu ra vấn đề cốt lõi: Triết lý giáo dục, còn gọi giản dị hơn là Mục đích giáo dục. Về nội dung này xin xem thêm nhận định rất căn bản của TS Giáp Văn Dương trong bài “Con người tự do hay con người công cụ?” trên báo Tuổi Trẻ:

“Giáo dục đang rẽ vào khúc ngoặt với đề án ‘Đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục’. Vì thế, cần thiết phải nhìn nhận chân xác hơn những vấn đề lớn mang tính định hướng của giáo dục.

Một trong những vấn đề như vậy là: Tìm lối thoát cho giáo dục ở chỗ nào?

Tự do hay công cụ

Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về con người với những phẩm tính cụ thể, nhưng về đại thể có thể chia thành hai trường phái lớn: con người công cụcon người tự do.

Con người công cụ là con người không có hoặc có rất ít bản sắc cá nhân, được coi như một bộ phận nhỏ bé trong cả một hệ thống lớn, hướng đến một mục tiêu lớn, thường là rất trừu tượng. Vì thế, cách đào tạo chủ yếu là nhồi nhét một chiều. Phương pháp đào tạo lấy giáo viên và giáo trình làm trung tâm, dạy và học theo kiểu đọc chép. Không có phản biện, không có sáng tạo, không có lật ngược vấn đề.

Các nội dung đào tạo cũng không cần phải là kiến thức khả tín, mà có thể cài cấy các nội dung ngoài lề, thường là tuyên truyền một chiều và thường nhấn mạnh vào đạo đức, trách nhiệm… thay vì khai mở khả năng phản biện, xử lý thông tin, tìm hiểu thế giới để tìm ra sự thật.”

‘Nếu nền giáo dục muốn có những con người công cụ thì không cần phải đổi mới toàn diện, triệt để, vì hệ thống hiện tại đã đáp ứng được những tiêu chuẩn này.’

“Ngược lại với con người công cụ là con người tự do, theo nghĩa họ được tự do lựa chọn các giá trị mà mình theo đuổi, hành động mà mình thấy phù hợp. Trong giáo dục thì đó là tự do học thuật, theo nghĩa: tự do học, tự do dạy và tự do nghiên cứu.

Tất nhiên khi đã tự do lựa chọn thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm với lựa chọn của mình. Vì thế con người tự do không chỉ tự định đoạt số phận của mình mà còn tự chịu trách nhiệm với chính nó nữa.

Cũng nhờ đó mà con người tìm ra ý nghĩa đời sống của mình, vì họ được sống thật với điều họ muốn, cái mà họ theo đuổi, thay vì sống theo các tiêu chuẩn áp đặt từ bên ngoài, dù các tiêu chuẩn đó được truyền tải trong hệ thống giáo dục chính quy đi chăng nữa.

Chỉ bằng cách đó con người mới có khả năng phát triển tốt nhất phù hợp các đặc điểm sinh học và văn hóa của riêng mình, và do đó hoàn thiện được mình ở mức cao nhất có thể. Thông qua đó, anh ta sẽ đóng góp cho xã hội ở mức lớn nhất có thể.

Nếu là con người tự do, anh ta cũng sẽ có xu hướng bảo vệ tự do của mình và tôn trọng tự do của người khác. Đây là một sự tương tác kiểu “có đi có lại”, vì chỉ có bằng cách đó tự do của anh mới được người khác tôn trọng. Trong trường hợp có xung đột, hai bên sẽ bàn thảo và thỏa hiệp để có giải pháp chung.

Bằng cách đó, gốc rễ của một xã hội văn minh được hình thành. Ở đó, con người cá nhân được tôn trọng và bảo vệ. Giải pháp thì được tìm thấy thông qua thảo luận. Hành vi được giám hộ bởi thỏa thuận, hoặc rộng hơn là pháp luật. Con người công dân được hình thành một cách tự động.

Từ đây con người văn minh, độc lập và sáng tạo – nguồn gốc của phát triển – sẽ được hình thành. Tập hợp những con người này sẽ tạo ra một xã hội văn minh, độc lập và sáng tạo, tức một xã hội phát triển. Bằng cách đó, chính giáo dục chứ không phải cái gì khác, đã trực tiếp định hình sự phát triển của một dân tộc.

Cần tạo ra con người tự do!

Nếu hệ thống giáo dục được thiết kế để tạo ra con người tự do thì ngay lập tức toàn bộ cơ cấu và cơ chế của nó sẽ được thiết kế sao cho phù hợp với mục đích này…” (hết trích)

Đọc bài [“Con người tự do hay con người công cụ?”] đầy đủ tại đây: https://tuoitre.vn/con-nguoi-tu-do-hay-con-nguoi-cong-cu…)

Nguồn: FB Thái Hạo

XEM THÊM:

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước báo chí sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. Ảnh: AP - Luong Thai Linh

Báo chí Việt Nam chính thức thông báo tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ trần

Còn ông Michael Tatarski, chủ trang Web thời sự Vietnam Weekly bằng tiếng Anh, đăng độc lập ở Sài Gòn, cho rằng theo quan sát của ông về cuộc chuyển giao quyền lực sau khi ông Trọng tạ thế, câu hỏi lớn hơn cả là cách Việt Nam đối xử với xã hội dân sự, việc kiểm soát Internet, các thảo luận mở, và việc kiểm duyệt văn hóa.