Dân chủ và tăng trưởng có loại trừ lẫn nhau?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Nguồn: Democracy Versus Growth?”, Harold James, Project Syndicate, 24/4/2015.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Tình trạng bất ổn hiện nay của châu Âu đã khơi lại cuộc tranh luận cũ về việc hình thức chính phủ nào sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế tốt hơn. Các chế độ chuyên chế, với khả năng ép buộc tiến hành những lựa chọn không phổ biến, liệu có hiệu quả hơn trong việc tạo ra tăng trưởng? Hay dân chủ tự do, với cơ chế kiểm soát và đối trọng, sẽ mang lại sự thịnh vượng vật chất lớn hơn?

Trong cuộc tranh luận này, các bằng chứng hỗ trợ dường như đã dao động từ bên này sang bên kia trong những thập niên gần đây. Trong những năm 1980, hoạt động kinh tế ở Chi-lê, dưới chế độ độc tài của Tướng Augusto Pinochet, và ở Singapore, dưới một chế độ ôn hòa hơn nhưng vẫn là chuyên chế của Lý Quang Diệu, là rất ấn tượng. Trong khi đó, các nước dân chủ của thế giới công nghiệp lại đang phải vật lộn với suy thoái và trì trệ.

Tại châu Âu, điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của thuật ngữ “Bệnh xơ cứng châu Âu” (“Eurosclerosis”). Nền dân chủ, theo các nhà khoa học chính trị, là quá dễ bị ảnh hưởng bởi các lợi ích vốn có tác động kiềm chế tăng trưởng. Các chế độ chuyên chế – ít nhất là những chế độ không tìm cách tàn phá đất nước của họ – có thể có vị thế tốt hơn để thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo sự thành công kinh tế dài hạn.

Quan điểm này đã sụp đổ theo Bức tường Berlin. Sự tan rã của chế độ cộng sản và tuyên bố từ bỏ kế hoạch tập trung ở Đông Âu đã dẫn đến một dòng tư tưởng mới, khi một lượng lớn cử tri cho thấy họ sẵn sàng chấp nhận những hy sinh tạm thời nếu chúng gắn liền với một chương trình cải cách thực tế và không tham nhũng. Ở Mỹ La-tinh, các chính trị gia cánh tả đã nắm lấy các nguyên tắc thị trường như là cách tốt nhất để đáp ứng nguyện vọng của cử tri, và để tăng trưởng trở lại. Trong phần lớn những năm 1990, các nền dân chủ dường như chiếm ưu thế.

Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục. Kể từ đầu thế kỷ này, dường như sự tăng trưởng kinh tế siêu cấp của Trung Quốc đã một lần nữa làm nổi bật những lợi ích của chủ nghĩa chuyên chế. Sự thành công của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc lèo lái vượt qua sự bất ổn của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu mà hầu như không bị suy suyển gì đã thu hút sự chú ý của các quốc gia khác, những nước có khả năng sẽ đi theo tấm gương của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo như Vladimir Putin của Nga, Recep Tayyip Erdoğan của Thổ Nhĩ Kỳ, Abdel Fatah el-Sisi của Ai Cập, và Viktor Orbán của Hungary cho rằng cái giá của sự ổn định và tăng trưởng kinh tế đôi khi có thể là sự ngưng lại của nền dân chủ.

Cuộc khủng hoảng dường như bất tận của đồng Euro đã khiến một số nhà lãnh đạo châu Âu đặt niềm tin vào quan điểm đó. Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, Jean-Claude Juncker, nay là Chủ tịch Ủy ban châu Âu [European Commission, nhiệm kỳ 2014-2019], được cho là đã nói, “Chúng ta đều biết phải làm gì, chúng ta chỉ không biết làm thế nào để có thể tái đắc cử sau khi chúng ta đã thực hiện xong nó.” Trong tháng 5 năm 2010, các nhà lãnh đạo châu Âu đã quyết định rằng họ không thể một mình thực thi cải cách ở Hy Lạp, và đã nhờ đến Quỹ Tiền tệ Quốc tế như một cơ chế xử lý kỷ luật hơn là một nguồn lực tài chính. Gần đây hơn, Bộ trưởng Tài chính Đức Wolfgang Schäuble gây ra tranh cãi khi rõ ràng là lấy cảm hứng từ kinh nghiệm kể trên và nói rằng “nước Pháp sẽ vui mừng nếu ai đó có thể buộc Quốc hội” phải cải cách (ý nói nếu nước Pháp trở nên chuyên chế – NBT).

Tất nhiên, sự thật là các chế độ chuyên chế – bất chấp các thành công ngắn hạn của họ bằng việc duy trì các chính sách vô trách nhiệm – đều không bền vững về lâu dài. Sự thiếu trách nhiệm giải trình chắc chắn tạo ra tham nhũng và kém hiệu quả – các vấn đề mà Trung Quốc hiện đang phải đối mặt.

Thách thức đối với các nền dân chủ là phải phát triển được các cơ chế cho phép họ thiết lập các chính sách bền vững trong dài hạn, đồng thời bảo vệ chính quá trình dân chủ. Sự đồng thuận của dân chúng trong việc hỗ trợ các khó khăn khi cải cách ở Đông Âu trong những năm 1990 chứng minh rằng các cử tri có thể hiểu và chấp nhận đánh đổi khi họ nhận thức được là không có lựa chọn nào khác. (Tương tự, cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp cho thấy cử tri sẽ không chịu hy sinh nếu họ nghĩ rằng có một lối thoát khác).

Cuộc tranh luận của quốc hội là một cách hiệu quả để thiết lập các ưu tiên dài hạn; nhưng các chính trị gia cần phải đảm bảo rằng các quyết định đưa ra được thực hiện mà không cần phải sửa đổi quá nhiều hoặc đi thụt lùi. Ví dụ, sau cuộc Đại suy thoái, đã có một sự đồng thuận rộng rãi tại Hoa Kỳ rằng sự can thiệp quá mức của Quốc hội phải chịu trách nhiệm cho sự gia tăng đầy tai hại của các rào cản nhập khẩu theo quy định của Đạo luật Biểu thuế Smoot-Hawley. Kết luận được đưa ra là chính sách thương mại tốt hơn nên được giao cho tổng thống, một vị trí được cách ly tốt hơn khỏi những áp lực của cử tri.

Tương tự, cuộc tranh luận ở châu Âu về một khuôn khổ tài chính phù hợp có thể được giải quyết thỏa đáng nhất bằng một cuộc trưng cầu dân ý, sau cuộc tranh luận công khai về một chiến lược lâu dài và bền vững. Nhưng việc thực hiện quyết định này tốt nhất nên được giao phó cho các quốc gia thành viên.

Cho dù ở cấp độ toàn châu Âu hay ở cấp độ cá nhân các nước thành viên, việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế dài hạn nên được giao phó một cách chính xác và rõ ràng cho các cơ quan có tính chính danh từ quá trình dân chủ, đồng thời phải được bảo vệ khỏi những ý tưởng bất ngờ tai hại hơn. Sự lựa chọn thay thế bền vững cho quá trình ra quyết định dân chủ không phải là chủ nghĩa chuyên chế; mà là việc thực hiện các cơ chế để đảm bảo rằng sự thảo luận thận trọng và bình tĩnh sẽ không bị phá hoại bởi những phản ứng bốc đồng đối với một cuộc khủng hoảng trước mắt.

Harold James là Giáo sư Lịch sử và Quan hệ Quốc tế tại Đại học Princeton, Giáo sư Lịch sử tại Viện Đại học Châu Âu (EUI), Florence, và là nghiên cứu viên cấp cao tại Trung tâm Đổi mới Quản trị Quốc tế (CIGI). Là chuyên gia về lịch sử kinh tế của Đức và về toàn cầu hóa, ông là tác giả của “The Creation and Destruction of Value: The Globalization Cycle”, “Krupp: A History of the Legendary German Firm”, và “Making the European Monetary Union.”

Nguồn: Nghiên Cứu Quốc Tế

 

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Một người dùng điện thoại đọc tin trên báo Nhân Dân điện tử đưa tin ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời. Ảnh: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images

Nguyễn Phú Trọng, sự nghiệp và di sản

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời chiều 19 Tháng Bảy. “Cái quan định luận” (đóng nắp quan tài hãy bình luận) – dù ủng hộ ông hay không, đây là lúc nên nhìn lại di sản của người cầm đầu đảng và chính quyền Việt Nam suốt hai thập niên qua…

Ông Trọng chết, cái lò của ông có thể tắt lửa, nhưng chế độ công an trị mà ông khai mở vẫn còn đó, càng ngày càng lộng hành một cách quá quắt và cái di sản đó sẽ còn tác hại lâu dài…

Ông Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 1 tháng Hai, 2021. Ảnh: Reuters

Sau Nguyễn Phú Trọng sẽ là một chương bất định?

Trong chính trị, nhất là đối với một nền chính trị phức tạp như ở Việt Nam hiện nay, vào giai đoạn “hậu Nguyễn Phú Trọng” tới đây, thật khó mà vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa ra đi và dừng lại, giữa kết thúc và khởi đầu.

Một trong những câu hỏi lớn mà giới quan sát gần đây đặt ra là, dù rừng khuya đã tắt, nhưng cái lò ‘nhân văn, nhân nghĩa, nhân tình’ của ông Trọng sắp tới có còn đượm mùi củi lửa nữa hay không? Đây là điểm bất định đầu tiên!

TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng. Ảnh: FB Việt Tân

Quan điểm của Việt Tân: Nguyễn Phú Trọng là người Cộng sản cuối cùng

Nguyễn Phú Trọng còn là nhân vật ngả theo Trung Quốc. Ông Trọng và hệ thống cầm quyền đã gây tác hại cho đất nước qua những hiệp định hợp tác bất bình đẳng giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, qua việc phân định biên giới đất liền lẫn ngoài Biển Đông.

Kết thúc triều đại Nguyễn Phú Trọng bằng sự nắm quyền của Tô Lâm và phe nhóm công an là một đại họa mới. Đất nước và xã hội sẽ chìm đắm trong hệ thống công an trị. Người dân vốn dĩ đã mất tự do, nay sẽ còn bị kìm kẹp chặt chẽ hơn…

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trước báo chí sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại trụ sở Trung ương đảng CSVN ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 10/09/2023. Ảnh: AP - Luong Thai Linh

Báo chí Việt Nam chính thức thông báo tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ trần

Còn ông Michael Tatarski, chủ trang Web thời sự Vietnam Weekly bằng tiếng Anh, đăng độc lập ở Sài Gòn, cho rằng theo quan sát của ông về cuộc chuyển giao quyền lực sau khi ông Trọng tạ thế, câu hỏi lớn hơn cả là cách Việt Nam đối xử với xã hội dân sự, việc kiểm soát Internet, các thảo luận mở, và việc kiểm duyệt văn hóa.