Tăng trưởng không thể dựa vào GDP để mị dân

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Nhiều người lầm tưởng rằng tăng trưởng GDP đồng nghĩa với việc đất nước đang giàu lên. Thực chất GDP không phản ánh đầy đủ mức độ giàu-nghèo của một quốc gia hay chất lượng sống của người dân. Ngược lại, việc theo đuổi tăng trưởng GDP “bằng mọi giá” như tại Việt Nam, đang đẩy nền kinh tế vào trạng thái lệ thuộc và thiếu bền vững.

Truyền thông trong nước hôm 27/12 dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, cho biết tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2018 tăng 7,08%. Các kênh truyền hình, báo đài, phát thanh đồng loạt loan tải tin này và nói rằng đây là mức tăng cao nhất từ 10 năm qua. Nhiều phương tiện truyền thông còn gọi đó là “thành quả” từ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, đặc biệt công đầu thuộc về Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Tuy nhiên, bất chấp sự vui mừng của các quan chức cộng sản, thực tế nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn khi có tới hơn 90.000 doanh nghiệp trong nước phá sản trong năm 2018. Đồng thời, có nhiều chỉ dấu cho thấy sự lệ thuộc vào các tập đoàn ngoại quốc, thiếu năng lực nội tại và kém bền vững…

“GDP không phải là thước đo tốt”

Theo l‎ý thuyết kinh tế, GDP là cộng dồn tất cả những thứ được sản xuất ra của một nền kinh tế. Từ các hộ gia đình, chính phủ và doanh nghiệp, bao gồm cả phần đóng góp của các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ số GDP đang ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, không còn là thước đo đáng tin cậy phản ánh kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt là trong thời đại tăng trưởng ngành dịch vụ, thương mại điện tử, công nghệ số có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhưng nó lại trở nên “vô hình” trước GDP.

Bên cạnh đó, GDP chỉ tính đến các sản phẩm được sản xuất, mua bán. Ví dụ như việc xây các trạm BOT khiến GDP tăng trưởng, nhưng thuế, phí từ các trạm BOT vắt kiệt túi tiền của người dân lại không được tính đến. Tương tự, việc nhà cầm quyền thúc đẩy khai thác dầu mỏ làm GDP tăng, nhưng hậu quả là tài nguyên bị cạn kiệt lại không được đề cập trong GDP. Hay như việc chính quyền cấp phép xây dựng hàng loạt khu công nghiệp, nhà máy sẽ khiến GDP tăng, nhưng những hệ lụy về môi trường, bệnh tật của người dân thì không được đề cập đến trong GDP…

Một điểm bất hợp lý khác nằm ở cách tính GDP. Chẳng hạn, nhà máy Samsung đặt tại Bắc Ninh, thuộc sở hữu của người Hàn Quốc. Lợi nhuận cũng là của người Hàn và được mang về cho người Hàn, nhưng lại được tính vào GDP và bình quân đầu người của người Việt Nam. Con số lợi nhuận đó góp phần lớn vào tăng trưởng GDP, nhưng không tác động gì nhiều đến mức sống của người dân và nền kinh tế Việt Nam.

Do vậy, giá trị kinh tế GDP đo lường thực chất không phản ánh sự phát triển của xã hội, hay sự giàu nghèo của một quốc gia. Một đất nước có thể có GDP rất cao, nhưng người dân của đất nước đó vẫn nghèo, Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Trung Quốc đứng thứ 2 thế giới về GDP, nhưng người dân Trung Quốc vẫn rất đói khổ. Đây là lý do GS. Joseph Stiglitz, người đạt giải Nobel Kinh tế năm 2001, cho rằng “GDP không phải là thước đo tốt.”

Tăng trưởng của FDI đe dọa tính bền vững của nền kinh tế

Mặc dù mục tiêu tăng trưởng GDP tại Việt Nam đã hoàn thành, thậm chí vượt kế hoạch, nhưng thành quả trên chủ yếu do sự phát triển của các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Hiện nay các doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 65-70% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, đóng góp khá lớn cho mức tăng trưởng này là Samsung, năm 2018 dự kiến đạt hơn 60 tỷ USD và Formosa ước đạt khoảng 2,6 tỷ USD. Thực trạng này là đáng báo động, vì số lợi nhuận mà các tập đoàn trên thu được sẽ chuyển về chính quốc, trong khi đặt nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều rủi ro.

FDI có thể là một công cụ hữu dụng cho phát triển, nhưng đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, không thể phụ thuộc vào khối doanh nghiệp này. Bởi suy cho cùng, mục đích của các công ty nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam chỉ là tăng lợi nhuận. Do đó vốn FDI có thể vào và đương nhiên có thể ra đi. nếu trong trường hợp khủng hoảng tài chính, loại hình đầu tư này sẽ rút đi rất nhanh, tạo ra hiệu ứng lan truyền. Đến lúc đó khủng hoảng nối tiếp khủng hoảng, hậu quả có thể là sự phá sản nền kinh tế của cả một quốc gia.

Đa số các doanh nghiệp FDI đang có mặt tại Việt Nam hiện nay không đưa công nghệ mới hoặc chỉ đưa công nghệ cũ vào sản xuất. Nếu có công nghệ tiên tiến, họ cũng thường viện cớ để không chuyển giao cho phía Việt Nam. Đây là lý do hoạt động kinh tế của Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng nề vào gia công manh mún dựa trên nguyên liệu nhập khẩu. Vì vậy dù số liệu phát triển công nghiệp trên giấy tờ tốt, nhưng thay đổi thực tế chưa nhiều.

Chưa hết, điểm xấu của các doanh nghiệp FDI đó là họ đang làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của các công ty nội, bằng cách khiến tỷ giá tiền Việt Nam đồng tăng, dẫn đến giá thành xuất khẩu sản phẩm tăng. Bên cạnh đó một số tập đoàn còn lợi dụng các ưu đãi của Việt Nam về chính sách vốn để sử dụng “giao dịch vòng”. Theo đó, họ sẽ sử dụng công ty con đi vay vốn lãi suất thấp tại Việt Nam, rồi cho vay lại công ty mẹ. Cứ như vậy, họ bòn rút nguồn vốn của Việt Nam để xây dựng nguồn lực cho tập đoàn của họ.

Tóm lại, doanh nghiệp FDI tại Việt Nam không đóng góp nhiều vào nền kinh tế ngoài việc làm tăng con số xuất khẩu… để nhà cầm quyền CSVN tuyên truyền. Trong khi đó, hoạt động của các công ty này đang gây ra nhiều hệ lụy như: trốn thuế, vắt kiệt tài nguyên thiên nhiên, tận diệt cây rừng và khoáng sản. Đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường, như: Formosa, nhà máy giấy Lee&Man, nhiệt điện Vĩnh Tân…

Rõ ràng, GDP không đo lường hết bản chất của nền kinh tế hiện đại. Phát triển bền vững phải tăng trưởng theo chiều sâu. Nói cách khác, không chỉ nhìn vào con số tăng trưởng mà còn phải quan tâm đến bản chất của tăng trưởng. Việc trông cậy vào GDP, cho thấy nhà cầm quyền CSVN đang đánh giá sai nhu cầu của nền kinh tế và thiếu chiến lược thúc đẩy tăng trưởng hợp lý.

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại buổi họp báo sau lễ bế mạc đại hội 13 của ĐCSVN tại Hà Nội ngày 1/2/2021. Ảnh: Manan Vatsyayana/ AFP

Ông Trọng để lại ĐCSVN ở thế chín muồi cho sự cai trị độc tài

Lãnh đạo đảng từ năm 2011, ông Trọng đã cố gắng làm sống lại một thế chế, đang sa lầy trong các cuộc tranh đoạt cá nhân, tìm kiếm lợi ích và tiến thân trong giai đoạn đầu những năm 2010.

Tham nhũng tràn lan đến mức công chúng không còn ‘tâm phục, khẩu phục.” Tư tưởng và đạo đức đã đã không còn được xem trọng. Các phong trào dân chủ đe dọa sự độc quyền về quyền lực của đảng. Khu vực tư nhân không chỉ giàu có mà còn mong muốn có nhiều quyền lực chính trị hơn.

Nhưng cái thể chế mà ông Trọng nỗ lực chữa trị đã được để lại với hiện trạng như thế nào?

Ảnh minh họa - Công nhân làm việc tại Xí nghiệp may Hà Quảng, Quảng Bình (trang mạng Nhiếp ảnh và Đời sống)

Reuters: Mỹ hoãn quyết định nhạy cảm về ‘nền kinh tế thị trường’ của Việt Nam đến tháng 8

Bộ Thương mại Mỹ cho biết hôm thứ Tư rằng họ đã trì hoãn một quyết định khó khăn về việc có nên nâng cấp tình trạng kinh tế thị trường của Việt Nam thêm khoảng một tuần cho đến đầu tháng 8, với lý do “lỗi phần mềm CrowdStrike.”

Một quyết định về việc nâng cấp mà Hà Nội đã tìm kiếm từ lâu đã đến hạn vào thứ Sáu 26/7. Việc nâng cấp này bị các nhà sản xuất thép Mỹ, tôm vùng Vịnh và nông dân mật ong phản đối, nhưng được hỗ trợ bởi các nhà bán lẻ và một số nhóm kinh doanh khác.

Việc nâng cấp trên sẽ làm giảm các khoản thuế chống bán phá giá đối với [hàng] nhập khẩu Việt Nam do tình trạng hiện tại của Việt Nam đang được Mỹ coi là nền kinh tế phi thị trường.

Chủ tịch nước Tô Lâm đón tiếp Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Hà Nội ngày 20/6/2024. Ảnh: Reuters

Sau quốc tang là điều gì cho Tô Lâm?

Là một quốc gia ảnh hưởng của Nho giáo, vấn đề tang chế của bậc đế vương luôn thu hút sự quan tâm của “bàn dân thiên hạ.” Việc ai chủ trì lễ tang, ai đọc điếu văn sẽ là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng chuyển tải thông điệp về việc người kế nhiệm.

Câu chuyện phe phái tranh giành quyền lực đã được bàn tán nhiều năm, lại tiếp tục được hâm nóng ngay từ bây giờ, khi người quan trọng nhất đang nằm trong nhà tang lễ và các thủ tục cho chuẩn bị một lễ quốc tang đang được tiến hành.

Trong những ngày này, người dân dán mắt vào từng động thái xoay quanh đám tang để “dò đoán” thái độ của từng nhân vật cấp cao.

Tô Lâm sẽ lên tổng bí thư?

Theo quy định thì ông Tô Lâm đương nhiên sẽ là trưởng ban lễ tang, thế nhưng điều đáng lưu ý là trưởng ban tổ chức lễ tang lại là ông Lương Cường – Thường trực Ban Bí thư.

Đây là một chỉ dấu cho thấy phe quân đội đang tìm cách cân bằng lại tương quan quyền lực đối với ông Tô Lâm. Và như thế, cuộc quyết đấu quyền lực giữa phe quân đội và phe công an đang bắt đầu. Phe nào giành ưu thế hay là sẽ thoả hiệp thì chúng ta phải tiếp tục chờ đợi ở Hội nghị Trung ương 10 sắp tới.