‘Dục tốc bất đạt’

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Tưởng tượng một tình huống: nhà khoa học báo cáo rằng họ mới phát hiện một protein có thể giúp phân biệt người mắc bệnh ung thư và bình thường. Hay hơn nữa, cái protein này nó có thể cho bác sĩ biết nên dùng thuốc nào cho bệnh nhân.

Là bệnh nhân, bạn có muốn xét nghiệm cái protein đó không? Có lẽ nhiều bạn (như bà con tôi) sẽ nói là Yes, sẽ tìm đến xét nghiệm protein đó để biết mình thật sự mắc bệnh hay không.

Nhưng nếu là tôi, tôi sẽ không dùng xét nghiệm đó.

Có thể sự khám phá cái protein đó là hay và thú vị, nhưng kết quả của 1 nghiên cứu — thậm chí 10 nghiên cứu — tôi vẫn chưa dám đặt niềm tin vào khám phá đó.

Tại sao?

Tại vì tôi phải xem xét nhiều khía cạnh. Chẳng hạn như tôi phải tìm hiểu thêm:

– cơ chế sinh học của protein là gì, nó vận hành ra sao? Nên nhớ rằng nhiều khám phá chẳng có cơ chế sinh học vững vàng — rất có thể chỉ là ngẫu nhiên, vô nghĩa.

– nghiên cứu đó được thiết kế theo mô hình nào? Ở VN đa số các nghiên cứu chỉ quan sát nên giá trị khoa học thấp, không tin cậy được.

– nghiên cứu được công bố ở đâu, tập san nào? Nhiều khi tập san dỏm hay loại làng nhàng thì chất lượng nghiên cứu cũng làng nhàng.

– mức độ liên quan của protein và bệnh ra sao? Liên quan thống kê có khi chẳng có ý nghĩa gì đối với liên quan lâm sàng.

– độ chính xác trong phân biệt bệnh và không bệnh cao cỡ nào? Xét nghiệm gây dương tính giả và âm tính giả có khi nguy hiểm cho bệnh nhân.

– độ tái lập của nghiên cứu có cao? Một hay 10 nghiên cứu vẫn chưa đủ, phải có thử nghiệm RCT chất lượng cao mới đáng tin.

Nếu xem xét theo các tiêu chuẩn trên, các bạn sẽ thấy tuyệt đại nghiên cứu khoa học là … thất bại, không thể ứng dụng được.

Thất bại vì sai lầm trong phương pháp. Thất bại vì quá lạc quan lúc ban đầu. Thất bại vì nhận thức sai và diễn giải sai. Thất bại vì không hiểu ý nghĩa của tương tác. Nói chung là nhiều lý do lắm.

Khoảng 90-95% kết quả nghiên cứu công bố trên các tập san khoa học là sai hay thất bại. Đó là sự thật.

Ngay cả khi kết quả nghiên cứu là đúng thì việc triển khai sang lâm sàng rất nhiêu khê và mất thời gian. Chỉ 1/5 nghiên cứu RCT là đi vào ứng dụng trong lâm sàng. Và, theo một phân tích mới công bố trên tập san JAMA, phải mất 17 năm để kết quả nghiên cứu RCT có thể ứng dụng trong lâm sàng.

Mười bảy năm!

Tại sao?

Tại vì nhà chức trách phải xem xét đến vấn đề y đức, pháp luật và kinh tế. Nếu xét nghiệm có độ dương tính giả cao (ví dụ như trên 10%) thì vấn đề y đức được đặt ra do gây ‘oan khiên’ cho nhiều người. Các hiệp hội chuyên môn cũng cẩn thận cân nhắc việc triển khai xét nghiệm vào thực tế vì họ là tổ chức chuyên môn. Nhà chức trách còn phải cân nhắc giữa chi phí và lợi hại cho bệnh nhân, nên thường các xét nghiệm mới rất khó khăn để đi vào hiện thực.

Kinh nghiệm cá nhân tôi là vậy. Chúng tôi mất gần 20 năm để phát triển một mô hình tiên lượng không xâm lấn, và 5 năm trời làm việc với nhà chức trách y tế và hiệp hội bác sĩ chuyên khoa mới dám đưa ra ứng dụng trong thực tế. Rất chậm, nhưng chắc ăn.

Tóm lại, con đường từ nghiên cứu khoa học đến ứng dụng lâm sàng rất gập ghềnh và lâu dài. Bất cứ một phát hiện nào (dù đó là thuốc, protein, molecule, gen, hay marker) cần một thời gian dài để chứng minh nó có hiệu quả và đem lại lợi ích cho công chúng. Không nên tin bất cứ một nghiên cứu đơn lẻ nào.

Nhưng có nhiều nhóm vì lý do tiền bạc nên đã vội vã ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế.

Việc vội vã triển khai một kết quả nghiên cứu khoa học vào ứng dụng lâm sàng mà không qua các bước đánh giá là rất nguy hiểm cho công chúng. Thảm họa Theranos (bên Mỹ) là một minh chứng cho sự vội vã và sự chi phối của đồng tiền dẫn đến kết cục thê thảm cho nhiều người.

Khổng Tử nói đúng: dục tốc bất đạt. Thành tựu nào cũng cần thời gian dài để suy xét, phải nghĩ về lâu dài và lợi ích cho đám đông; tránh hấp tấp, càng tránh hám lợi trước mắt.

Là bệnh nhân, khi được giới thiệu một liệu pháp điều trị (như tế bào gốc chẳng hạn) hay xét nghiệm nào đó thấy là lạ, các bạn phải hỏi hay tự tìm hiểu:

– liệu pháp hay xét nghiệm đó đã được nhà chức trách y tế nước ngoài (như FDA) phê chuẩn?

– cơ sở khoa học là gì, công bố ở đâu, hiệp hội y khoa nào đồng ý?

– độ chính xác hay hiệu quả ra sao?

– tốn bao nhiêu tiền và làm bao nhiêu lần?

– có gây tác hại lâu dài hay không và ai chịu trách nhiệm.

Dựa vào những câu trả lời trên các bạn sẽ đi đến một quyết định sáng suốt. Không bao giờ tin vào các chuyên gia một cách mù quáng!

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Hình ảnh nhà sư Thích Minh Tuệ trên một trang mạng xã hội. Ảnh: Pháp Luật TP.HCM

Thật và giả từ bước chân thầy Minh Tuệ

Hình ảnh một hành giả mặc áo vá, đầu trần chân đất đi từ Nam ra Bắc thực hành phép tu hạnh đầu đà của Phật Giáo đang gây một trận động đất trong dư luận Việt Nam. Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngay lập tức phát ra thông báo khẳng định “người được mạng xã hội gọi là ‘Sư Thích Minh Tuệ’ không phải là tu sĩ Phật Giáo.” Oái oăm thay, lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của các vị chức sắc Phật Giáo quốc doanh lại góp phần phơi trần cái bản lai diện mục giả hiệu của chính họ.

Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ dược tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ hôm 15/5/2024

Hội nghị Thượng đỉnh Geneva về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16

Ngày 15/5/2024, tại Geneva, Thụy Sĩ đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ kỳ thứ 16 (The 16th Annual Geneva Summit for Human Rights and Democracy).

Mục đích của Hội nghị Thượng đỉnh về Nhân quyền và Dân chủ là đề cập đến tình trạng nhân quyền và đặc biệt là để hướng cộng đồng thế giới quan tâm đến một số trường hợp cần phải có sự can thiệp nhanh chóng để giảm đi những khổ nạn có thể xảy đến với các nạn nhân.

Hội nghị thượng đỉnh Geneva được tài trợ bởi một liên minh gồm 25 tổ chức phi chính phủ về nhân quyền từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đảng Việt Tân.

Từ trái sang phải: Trương Thị Mai - người vừa bị "cho thôi giữ các chức vụ," Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình và Đinh Thế Huynh. Ảnh chụp ngày 20/07/2016. Ảnh: AP - Hau Dinh

Việt Nam: Thêm một ủy viên Bộ Chính trị phải từ chức

Hôm qua, 16/05/2024, Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã bầu bổ sung 4 ủy viên sau khi một ủy viên khác là bà Trương Thị Mai phải từ chức và nghỉ việc.

Giữ chức thường trực Ban Bí thư và trưởng Ban Tổ chức Trung ương từ năm 2023, bà Trương Thị Mai như vậy là ủy viên thứ 3 trong Bộ Chính trị phải từ chức chỉ trong vòng hai tháng, sau Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong tháng Ba và Chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ trong tháng Tư.

Bà Trường Thị Mai vừa được cho thôi chức Thường trực Ban Bí thư, uỷ viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam hôm 16/5/2024. Ảnh: RFA

Đại tướng Lương Cường thay bà Trương Thị Mai làm thường trực Ban Bí thư

Đại tướng Lương Cường – Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 16/5 chính thức phân công thay cho bà Trương Thị Mai làm thường trực Ban Bí thư. 

Tại Hội nghị TƯ 9, Đại tướng Lương Cường ngồi ghế chủ tọa cùng với TBT Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Phạm Minh Chính. Đây là điều gây chú ý vì tại Hội nghị Trung ương 8 khai mạc hồi tháng 10/2023 có đến năm người, gồm: bà Trương Thị Mai, Võ Văn Thưởng, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Minh Chính và Vương Đình Huệ.