Nếu “cụ Cả” giáo điều: trí thức sẽ im lặng hay lên tiếng?

Ông Nguyễn Phú Trọng trong buổi họp báo ngay sau khi Đại hội 12 của đảng CSVN kết thúc 28/1/2016. Nguồn: Reuters
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Sức nóng của chiến dịch đốt lò, một chiến dịch chưa từng có tiền lệ trong hệ thống chính trị Việt Nam,  đụng chạm trực tiếp về mặt nhân sự cấp tướng thuộc Bộ Công an, và đưa Uỷ viên Bộ Chính trị – Bí thư thành uỷ TP. HCM đang đương chức ra toà với án tù lên tới hơn 30 năm khiến dư luận choáng ngợp.

Nhiều danh xưng dành cho người đứng đầu chiến dịch là ông TBT Nguyễn Phú Trọng như: kẻ sĩ Bắc Hà, sĩ phu, người Cộng sản cuối cùng…

Những danh xưng hoa mỹ và có phần tôn quý này là thể hiện một thái độ ngưỡng vọng với người đốt lò, người bảo vệ các giá trị trong đảng và nuôi ý chí đưa ĐCSVN vực dậy.

Nhưng cuộc chiến đốt lò cũng tạo ra những mối liên kết đáng ngờ, dù có yếu tố thanh lọc được bộ máy và gạt bỏ các thành phần tham nhũng trong ĐCSVN, nhưng những chỉ dấu của các yếu tố, nhân tố liên quan đến chiến dịch đều hướng tới ông Nguyễn Tấn Dũng – cựu Thủ tướng và là người khiến ông Trọng bật khóc trong một ngày mà thế và lực của Chính phủ lấn át lãnh đạo ĐCSVN.

Trong một bài viết được đăng tải trên The Diplomat nhằm chỉ ra sự khác biệt giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình, theo đó, mặc dù có hơi hướng giống nhau nhưng mục tiêu của ông Tập khác hẳn ông Trọng. Sự khác nhau đó thể hiện qua việc ông Bình tập trung phát triển quốc gia để làm gia tăng sự lãnh đạo của ĐCSTQ, trong khi ông Trọng chủ trương đi từ tập trung vun vén quyền lực trong Đảng và gia tăng sự cầm quyền của Đảng trong các vấn đề nhà nước.

Sự hợp nhất hai chức danh được coi là tạm thời, nhưng đồng thời nó cũng báo hiệu sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng trong nhà nước, như Điều 4 Hiến pháp quy định. Vấn đề là nó đi ngược với tinh thần cởi bỏ bớt bàn tay của Đảng trong các vấn đề thuộc quản trị quốc gia (đồng nghĩa gia tăng chính phủ kỹ trị). Sự gia tăng quyền lực của ông Nguyễn Phú Trọng được cho là làm hài lòng một số người, ít nhất là hệ quả về mặt kinh tế do ông Nguyễn Tấn Dũng để lại đã làm gia tăng số phiếu ủng hộ ông Trọng, và xuất hiện kỳ vọng ông Trọng sẽ có những bước đi tương xứng trong xác lập quyền quản trị quốc gia trên tinh thần luật lệ, cân bằng hoá giữa quyền lãnh đạo của ĐCS với sự đổi mới trong Đảng và tổng thể quốc gia để vực dậy nền kinh tế đất nước, như cách ông “quyết liệt đốt lò” trong thời gian qua. Nhiều văn sĩ kỳ vọng ông Trọng sẽ mở hướng đi quốc gia, một Gorbachev thời hiện đại. Họ gọi ông Trọng là “cụ Cả” đầy tính kính trọng, nhưng lại quên rằng, ông Trọng là một giáo sư xây dựng đảng và có thâm niên trong một tờ báo cực kỳ giáo điều mang tên Tạp chí Cộng Sản.

Khi ông Trọng tuyên bố rằng, Luật An ninh mạng ra đời nhằm bảo vệ chế độ, nhiều người từng bày tỏ niềm tin với ông bị sốc, nhưng họ vẫn bám víu vào sự thay đổi lớn nào đó khi ông Trọng nhậm chức Chủ tịch nước. Thế nhưng, trong vai trò Chủ tịch nước, một quyết định kỷ luật GS Chu Hảo ra đời, thậm chí, người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam đã phê phán GS Chu Hảo (một người cổ vũ nhiệt thành cho đời sống dân quyền quốc gia) với một thái độ hết sức “nghiêm khắc”.

“Về cơ bản là rất tốt rồi nhưng không phải không có những người cậy mình có chút công lao để sinh ra kiêu ngạo, muốn nói gì thì nói, phán gì thì phán, nói trái Điều lệ, nói trái Cương lĩnh.”

Rõ ràng, đứng trên cương vị là Tổng Bí thư, ông Trọng đã đúng khi phê phán GS Chu Hảo là “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, và nhấn mạnh đảng viên phải tuân theo điều lệ, cương lĩnh của Đảng. Tuy nhiên, khi phê phán trên tinh thần hà khắc như vậy, ông Nguyễn Phú Trọng đồng thời cũng xác nhận tình trạng giáo điều trong Đảng, tính thiếu đối diện liên quan đến sự hủ hóa và trì trệ trong đảng – tất cả khiến yếu tố hạn chế phê phán, phô bày những vấn đề trong Đảng ra ngoài (mà ông Trọng sử dụng cụm từ hết sức tiêu cực là “tuyên truyền”).

Với ông Trọng, sự tuân thủ cao hơn phản biện, bởi tuân thủ với ông là làm nên tính quyền lực áp đặt của Đảng, ông không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, cái quan điểm áp đặt từ trên xuống là nguyên nhân đẩy các ĐCS ở Đông Âu và Liên Xô đi đến  tan rã, là yếu tố làm nên sự quan liêu của chính ĐCS. Và khi mà tình trạng ngứa ghẻ trong Đảng đã đến thời kỳ lở loét, thay vì tìm cách công khai chữa trị, ông tìm cách bịt kín để vọng tưởng rằng, Đảng của ông vẫn đang khoẻ mạnh, nhưng không biết rằng, Đảng ông đang ngày càng nhiễm trùng nặng.

Nhưng tại sao ông Nguyễn Phú Trọng và những đồng chí của ông phải làm như vậy, chỉ có một câu giải thích duy nhất “e ngại bóng hình Gorbachev”. Gorbachev, người đã tìm cách cải tổ kinh tế để tránh khủng hoảng thông qua nhiều biện pháp, trong đó có cả gạt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô khỏi vai trò lãnh đạo đời sống kinh tế của đất nước.

Ông Nguyễn Phú Trọng chống lại tư duy dân chủ phương Tây trong Đảng, thậm chí bất kỳ những yếu tố cải tổ nào trong Đảng có thể làm suy giảm sự lãnh đạo của ĐCSVN đều sẽ bị ông gạt bỏ. Đó là vì sao ông tuyên bố thẳng thừng, “suy thoái mặt chính trị, suy thoái còn nguy hiểm hơn cả kinh tế”. Hiểu ngược, phải giữ được ổn định chính trị bất chấp suy thoái hay khủng hoảng kinh tế.

Rõ ràng, quan điểm nêu trên về “suy thoái” của ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước phản ánh một ích kỷ đối với quốc gia này. Venezuela đang hiện diện tại Việt Nam, nơi mà tiền mất giá, dân bỏ trốn khỏi quốc gia, mùa Giáng sinh có thể đối diện với giá lạnh vì nhà máy lọc dầu quốc gia Petroleos de Venezuela SA đang hoạt động cầm chừng; giấy vệ sinh đắt đỏ,… Còn Tổng thống Nicolás Maduro và đội ngũ quan chức vẫn sống xa hoa, những người cố thủ giữ ổn định chính trị bằng lực lượng vũ trang.

Trở lại với Việt Nam, các nhà trí thức sẽ phải làm gì trong bối cảnh này, im lặng hay sẽ lên tiếng về “cụ Cả”?

Hoa Nghi

Nguồn: Bauxite Việt Nam

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tình trạng của người bảo vệ nhân quyền. Ảnh: Srdefenders

Báo cáo viên đặc biệt LHQ: Hà Nội cần chấm dứt đàn áp nhân quyền một cách có hệ thống

Hà Nội cần chấm dứt việc đàn áp một cách có hệ thống và sử dụng các điều luật bị cho “nguỵ tạo” để bắt giam các nhà hoạt đông bảo vệ nhân quyền.

Đây là khuyến nghị của một số các tổ chức nhân quyền quốc tế cùng với quan chức Liên Hiệp Quốc và dân biểu Thuỵ Sỹ lên tiếng nhân dịp Việt Nam tham dự phiên Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) vào ngày 7/5/2024.

UPR 2024 – 5 năm nhìn lại tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Universal Periodic Review, được gọi tắt là UPR, tức Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát là một cơ chế của Hội đồng Nhân quyền LHQ (UNHCR), được thiết lập từ năm 2006, nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Để đạt được mục đích này, Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát thực hiện việc kiểm tra, đánh giá hồ sơ nhân quyền của mỗi quốc gia, và đưa ra khuyến nghị cho các vi phạm nhân quyền ở bất cứ nơi nào chúng xảy ra.

Vào ngày 7/5/2024 tới đây, tình hình nhân quyền Việt Nam được kiểm điểm trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát, chu kỳ thứ tư.

Ông Lê Đình Lượng: "Việc của tôi sẽ do lịch sử phán xét. Tôi sẽ vui khi phải ở lao tù nếu dân tộc này được lớn mạnh trong tự do dân chủ”. (Lời nói sau cùng trước khi tòa nghị án), Ảnh: Internet

Trong họa có phúc

Cháu học lịch sử cách mạng thì rõ, rất nhiều tù nhân chính trị về sau thành những người lãnh đạo phong trào xã hội đầy trí tuệ và bản lĩnh. Người có chí khí sẽ biến nhà tù thành trường học để tu tâm, dưỡng chí, nung nấu những khát vọng, ước mong… Đó là nỗi khổ hạnh của cá nhân nhưng lại là phúc cho dân tộc.

Chứ cái đám “hồng phúc” cậu ấm, cô chiêu kia, chỉ có ăn và phá, biết gì yêu nước thương dân!…