Nguyện vọng thoát Trung qua lá thư gửi Tổng thống Mỹ của nhân sĩ trí thức Việt Nam

Người dân các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam rời bỏ nhà cửa trước cuộc xâm lược của Trung Quốc vào ngày 23/2/1979. Ảnh: AFP
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Hôm 17/2/2019, trên các trang mạng xã hội xuất hiện bức thư của 100 nhân sĩ, trí thức và các tổ chức xã hội dân sự gửi Tổng thống Mỹ. Bức thư nêu lên vai trò của Hoa Kỳ đối với thế giới và nhân dân Việt Nam, và nhắc lại tuyên bố của Tổng thống Mỹ trong Thông điệp Liên bang năm 2019 rằng “Giờ đây, chúng ta phải bước đi mạnh bạo và can đảm vào chương mới của cuộc phiêu lưu vĩ đại của nước Mỹ, và chúng ta phải tạo nên một tiêu chuẩn sống mới cho thế kỷ 21”.

Cựu Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang, từng làm việc tại Bộ Ngoại giao, cũng là người tham gia soạn thảo lá thư, cho biết mục đích ra đời của lá thư:

“Nhân dịp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sắp sang Việt Nam họp Thượng đỉnh với nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên (27 và 28/2/2019), lá thư này ra đời không chỉ để Tổng thống Mỹ biết (vì ông đã thừa hiểu), mà chính là để dư luận thế giới, đặc biệt dư luận Việt Nam, dư luận Trung Quốc và cả châu Á hiểu rằng, trước nguy cơ Việt Nam bị xâm lược biển đảo, thì Hoa Kỳ là đồng minh tự nhiên của Việt Nam.”

PGS-TS ngôn ngữ học Hoàng Dũng nói với RFA rằng trên danh nghĩa thì lá thư được gửi cho Tổng thống Mỹ, nhưng thực chất không phải gửi cho cá nhân tổng thống mà là gửi cho người đại diện Hoa Kỳ để lên tiếng với thế giới nguyện vọng thoát Trung của người Việt Nam:

“Chúng tôi cũng không mong ông Trump làm gì được cho Việt Nam. Tất cả các nguyên thủ quốc gia khi quyết định việc gì thì họ đều đặt quyền lợi quốc gia của họ lên trên, chứ không vì lá thư mà họ thay đổi, nhưng qua lá thư chúng tôi muốn nói với công luận quốc tế và với người  dân Việt rằng chính phủ Việt Nam đang lơ lửng giữa hai xu hướng: Một là ngày càng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, và xu hướng thứ hai là muốn thúc đẩy càng nhanh càng tốt chuyển động thoát Trung.

Khi ông Trump và ông Kim Jong-un gặp nhau ở Việt Nam thì đây là thời điểm tốt để chúng tôi khẳng định lại là người Việt Nam thấy việc thoát Trung ngày càng cấp bách.”

Ông dẫn chứng sự lúng túng của chính phủ Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc qua cách ứng xử vụ tưởng niệm 40 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc vừa qua, là một mặt bật đèn xanh cho báo chí viết những bài khá mạnh mẽ về cuộc chiến ngày 17/2/1979, nhưng mặt khác thì lại giới hạn càng lúc càng chặt.

Cuộc Hội thảo cấp quốc gia về Cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc do viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam tổ chức hôm 15/2/2019 tại Hà Nội đã không dám nói đó là cuộc chiến tranh xâm lược, mà cũng không dám nêu tên Trung Quốc xâm lược. Trong buổi hội thảo tuyệt nhiên không có nhân vật chính trị cấp cao nào xuất hiện. Còn tại chuyến thăm nghĩa trang liệt sĩ hôm 17/2/2019 thì lại đưa một quan chức cấp cao nhưng đã rời khỏi chính trường đến dâng hoa, thắp hương, đó là nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Giáo sư Hoàng Dũng kết luận ‘Họ sợ!’ và nói thêm:

“Họ sợ hãi người dân nên phải ứng xử một cách vô văn hóa, đi ngược lại truyền thống dân tộc khi đem xe chở rác chắn ngang lối vào tượng đài Đức Trần Hưng Đạo, rồi cẩu lư hương đi chỗ khác….

Tất cả những điều đó cho thấy chính quyền Việt Nam đang rất lúng túng, tiến một bước lùi hai bước.

Và điều đó càng cho thấy cái thư của chúng tôi nhấn mạnh nguyện vọng của người Việt Nam là phải thoát Trung. Cái đó phải nói to ra cho thế giới biết và để thức tỉnh một bộ phận quan chức cũng như người dân để họ thấy đã đến lúc phải nói lên nguyện vọng đó.”

Một điều xuyên suốt trong lá thư rất dễ nhận thấy là mối đe dọa từ  Trung Quốc. Lá thư nhắc lại cuộc chiến Việt Nam mà ‘hậu quả đau đớn nhất chính là việc một nước Trung Hoa trở nên hùng hổ, đang trắng trợn mở rộng cuộc xâm chiếm vùng biển và các đảo của Việt Nam trên biển Đông, đe doạ quyền tự do hàng hải của mọi quốc gia trên vùng biển quốc tế, thách thức uy quyền của Hoa Kỳ ở châu Á-Thái Bình Dương.’

Cựu Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang khẳng định:

“Mục đích chính của những người tham gia ký tên thư này nói lên một điều là lợi ích của Hoa Kỳ và lợi ích của Việt Nam lúc này ở Biển Đông, mở rộng ra là Châu Á – Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương có cùng lợi ích là ngăn chặn sự bành trướng bá quyền của Trung Quốc, nên Việt Nam và Mỹ có thể là đồng minh với nhau trong vấn đề này. Khởi đầu là đồng lợi ích rồi có thể tiến tới là đồng minh về đối ngoại, sau này có thể mở rộng thành đối tác chiến lược toàn diện, chứ không phải chỉ là đối tác toàn diện như hiện nay.”

Tại phiên điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ ngày 12/2/2019, Đô đốc Philip Davidson, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ – Thái Bình Dương phát biểu rằng “Chúng ta phải chấp nhận một sự thật rằng tình hình Biển Đông đang thay đổi một cách nhanh chóng và chúng ta sẽ cần một cách tiếp cận mới. Điều này đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc với một vài địa điểm Mỹ chưa đặt căn cứ quân sự tại khu vực này. Chúng tôi đang bàn bạc với các đối tác và đồng minh về khả năng thiết lập những cơ sở này”.

Việt Nam là một trong những nước có tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc, là nước nhỏ nằm bên cạnh Trung Quốc và luôn chịu áp lực, đe dọa từ Trung Quốc. Lá thư cũng nêu lên rằng nhân dân Việt Nam ngày càng nhận thức rõ rằng nguy cơ bành trướng, xâm lược của Trung Hoa Cộng sản hôm nay là sự tiếp nối tham vọng đế quốc hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Ông Nguyễn Đăng Quang nhận định Việt Nam phải có sự chuẩn bị từ trước chứ không để “nước đến chân mới nhảy”:

“Nếu Mỹ đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam thì rõ ràng Trung Quốc sẽ không dám xâm lược Việt Nam, nhưng điều đó lại không phù hợp với chính sách ‘ba không’ của Việt Nam là ‘Không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không là đồng minh quân sự của bất kỳ quốc gia nào; và không đi với nước này để chống nước kia.’

Thế nhưng cái ‘không’ thứ ba có thể thay đổi, nghĩa là để bảo vệ đất nước, chống xâm lược thì buộc Việt Nam phải liên minh, tìm kiếm đồng minh với một nước thứ ba để bảo vệ Tổ quốc một khi Việt Nam bị một nước nào đó mạnh hơn xâm lược hay đe dọa xâm lược!

Vấn đề là phải chuẩn bị từ trước, để khi Việt Nam có nguy cơ bị xâm lược, hay bị xâm lược thì Việt Nam và Mỹ đã là đồng minh của nhau.”

Mối đe dọa từ Trung Quốc là điều mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận thấy, vì nó từ hàng ngàn năm qua rồi. Là người dân Việt Nam, cũng là một nghệ sĩ nổi tiếng luôn ủng hộ cho dân chủ, nhân quyền và thoát Trung, nghệ sĩ Kim Chi cho biết khi tham gia ký lá thư gửi cho Tổng thống Mỹ, bà không quá kỳ vọng nước Mỹ sẽ làm gì đó, bởi “người Mỹ họ thực dụng lắm. Cái gì có lợi cho họ thì họ làm, chứ không vì dân chủ nhân quyền của Việt Nam mà họ làm tất cả đâu.”

Bà cho biết bà chỉ nghĩ đơn giản là bây giờ làm bất cứ điều gì để thúc đẩy tiến trình quan hệ Việt Nam với quốc tế tốt hơn, đi gần với dân chủ hơn là bà làm, và đây cũng là dịp để Hoa Kỳ thấy rằng người dân tin cậy ở sự hợp tác trong công cuộc đòi nhân quyền và thoát Trung ở Việt Nam.

Diễm Thi

Nguồn: RFA

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ngân hàng TMCP Sài Gòn (gọi tắt là SCB) của đại gia Trương Mỹ Lan được chính phủ Việt Nam bơm tiền cứu. Ảnh: Nhac Nguyen/ AFP via Getty Images

Giải cứu SCB: Lợi bất cập hại!

Hình dung một cách đơn giản thì ngân hàng SCB huy động tiền của người dân, cung cấp cho bà Trương Mỹ Lan, bà này hối lộ cho các quan chức, rồi bây giờ bà Lan bị án tử hình còn NHNN bơm tiền ra để cứu ngân hàng SCB.

Khoản tiền giải cứu khổng lồ này [24 tỷ đô-la] không tự dưng mà có mà lấy từ ngân sách, nghĩa là từ tiền người dân và doanh nghiệp đóng thuế, từ bán tài nguyên quốc gia. Xét cho cùng, đất nước thiệt đơn thiệt kép, chỉ các quan chức giấu mặt được hưởng lợi.

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.