Vì sao Hoa Kỳ gởi công hàm cho Liên Hiệp Quốc vụ Biển Đông?

Công hàm của Mỹ gửi Liên Hiệp Quốc về Biển Đông và Đại Sứ Mỹ tại LHQ Kerry Craft. Ảnh: RFA edited
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Những diễn biến gần đây trên Biển Đông cho thấy, chẳng những Trung Quốc không từ bỏ tham vọng làm bá chủ vùng biển tranh chấp này mà còn tỏ ra hung hăng hơn, bất chấp pháp luật quốc tế.

Đâm chìm tàu cá Việt Nam, cấm đánh cá 3 tháng, đưa tàu hải cảnh võ trang hộ tống tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm nhập vùng biển chủ quyền Việt Nam, đe doạ tàu thăm dò dầu khí của Malaysia. Những hành động này của Bắc Kinh không phải là “trỗi dậy trong hoà bình” mà thực chất là bành trướng thế lực trong âm mưu chiếm trọn Biển Đông, tiến tới hất chân Mỹ khỏi vùng biển chiến lược này.

Tuy nhiên lần này, Bắc Binh đã vấp phải phản ứng cứng rắn của Hoa Kỳ đồng thời từ những quốc gia trong vùng. Lần lượt từ Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam đồng thanh lên tiếng qua Công Hàm gửi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, bác bỏ yêu sách chủ quyền phi pháp và vô căn cứ của Trung Quốc trong phạm vi đường 9 đoạn.

Trong bối cảnh đó, lần đầu tiên vào ngày 2 tháng Sáu, 2020, đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, trong tư cách nước có quyền lợi hàng hải trên Biển Đông đã chính thức gởi công hàm phản đối Trung Quốc. Công hàm có đoạn viết: “Hôm nay, Hoa Kỳ phản đối các tuyên bố chủ quyền lãnh hải phi pháp của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc… Chúng tôi bác bỏ những đòi hỏi chủ quyền không hợp pháp và nguy hiểm đó.

Mặc dù là quốc gia không có diện tích nào chiếm hữu ở Biển Đông, sự lên tiếng kịp thời của Hoa Kỳ cho thấy lập trường của Hoa Thịnh Đốn là đồng nhất với lập trường của 4 nước trong vùng đang bị “buộc phải tranh chấp” với kẻ xâm lược là Trung Cộng. Có thể nói với thái độ minh bạch và cứng rắn của Hoa Kỳ, kể từ nay Trung Quốc không còn có thể ngang nhiên đe doạ các nước trong vùng bằng ngoại giao pháo hạm.

Đây cũng là tín hiệu cho Trung Quốc thấy Hoa Kỳ luôn luôn quan tâm thái độ, hành động của Trung Quốc ở nơi mà trước đây Hoa Kỳ đã hiện diện để bảo vệ hoà bình thế giới. Đồng thời Hoa Kỳ cũng  không muốn quyền lợi an ninh và hàng hải của mình và các quốc gia đồng minh thiết thân vùng Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan bị đặt dưới sự khống chế của 7 căn cứ hoả lực mà Trung Quốc bồi đắp từ vài năm qua.

Gần sáu tháng sau trận chiến công hàm bùng nổ giữa Philippines, Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc, ngày 26 tháng Năm, 2020 Indonesia cũng gởi một công hàm cho ông tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, minh định lập trường của Djakarta về Biển Đông. Là một bên không có tranh chấp, nhưng Indonesia tuyên bố bác bỏ yêu sách “chủ quyền lịch sử” của đường lưỡi bò của Trung Quốc và yêu cầu phán quyết của Toà Án Trọng Tài năm 2016 về chủ quyền của Philippines phải được tôn trọng.

Cuối cùng công hàm phản đối Trung Quốc ngày 2 tháng Sáu, 2020 của Hoa Kỳ rõ ràng là một hành động phối hợp giữa 5 quốc gia để gia tăng sức ép lên đòi hỏi ngang ngược của Bắc Kinh. Trong bối cảnh Biển Đông xuất hiện tình hình bất lợi cho Trung Quốc, sự kiện này mang 3 ý nghĩa:

Thứ nhất, Hoa Kỳ đang chứng tỏ cho thế giới thấy quyết tâm của mình là sẵn sàng hậu thuẫn cho các quốc gia đang tranh chấp với Trung Quốc  để sẵn sàng đối đầu. 4 quốc gia đã lần lượt gởi công hàm lên Liên Hiệp Quốc bác bỏ đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông của Trung Quốc cũng cho thấy giờ đây họ từ bỏ lập trường lâu nay, chỉ phản ứng chừng mực để đủ bảo vệ quyền lợi kinh tế. Sự lên tiếng của Hoa Kỳ là chỗ dựa cho các nước nhỏ, củng cố lòng tin vào Hoa Kỳ để ít ra không còn bị Trung Quốc bắt nạt một cách phi lý.

Thứ hai, Hoa Kỳ cho thấy thế trận đối phó với Bắc Kinh bày ra trong thời gian tới. Trên bàn cờ Biển Đông, Hoa Kỳ sẽ đánh hai mặt trận trên biển, một mặt quân sự và một mặt luật pháp quốc tế. Về quân sự, khi so sánh lực lượng và những bài học tác chiến trên Thái Bình Dương giữa Mỹ và Nhật Bản trong thế chiến II, Trung Quốc tự hiểu chưa phải là đối thủ. Vì vậy thời gian trước mắt, Bắc Kinh chỉ có khả năng tiếp tục đe nẹt các nước láng giềng bằng lợi thế hải lực nước lớn, đồng thời chuẩn bị đối phó với những vụ kiện có thể xảy ra.

Gần đây, Tổng Thống Philippines Duterte đảo ngược lập trường, tuyên bố tiếp tục duy trì liên minh quân sự với Mỹ, điều mà trước đây ông đe doạ sẽ bãi bỏ. Sự kiện này cũng chứng tỏ Hoa Kỳ tạo được thế liên kết cần thiết, đang cùng 4 quốc gia Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc bằng hai mặt trận nói trên.

Thứ ba, rõ ràng Hoa Kỳ đã ra mặt bảo trợ cho Việt Nam để Việt Nam mạnh mẽ kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế sau trận chiến công hàm này. Nếu Việt Nam không mạnh dạn từ bỏ “chiến lược 4 không” lỗi thời, sẽ khó được ai tin tưởng là quốc gia thật sự muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền hơn những lời nói “không” sáo rỗng của giới tướng lãnh.

Nhất là trong thời gian gần đây các nguồn tin khả tín cho biết Trung Quốc đã sẵn sàng tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không ở Biển Đông (ADIZ – Air Defense Identification Zone), hoặc ngay trong năm 2020 hoặc trong năm sau. Nếu điều này diễn ra, sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều quốc gia và Việt Nam là quốc gia chịu sự khống chế trên vùng trời chủ quyền nhiều nhất.

Từ ba ý nghĩa này cho thấy, thật sự Hoa Kỳ đang muốn lôi kéo và khuyến khích Việt Nam bước vào mặt trận pháp lý và khởi kiện Trung Quốc. Vấn đề còn lại là CSVN có dám đứng thẳng lưng lên làm người, bảo vệ lãnh hải của mình hay không?

Phạm Nhật Bình

XEM THÊM:

 

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại buổi họp báo sau lễ bế mạc đại hội 13 của ĐCSVN tại Hà Nội ngày 1/2/2021. Ảnh: Manan Vatsyayana/ AFP

Ông Trọng để lại ĐCSVN ở thế chín muồi cho sự cai trị độc tài

Lãnh đạo đảng từ năm 2011, ông Trọng đã cố gắng làm sống lại một thế chế, đang sa lầy trong các cuộc tranh đoạt cá nhân, tìm kiếm lợi ích và tiến thân trong giai đoạn đầu những năm 2010.

Tham nhũng tràn lan đến mức công chúng không còn ‘tâm phục, khẩu phục.” Tư tưởng và đạo đức đã đã không còn được xem trọng. Các phong trào dân chủ đe dọa sự độc quyền về quyền lực của đảng. Khu vực tư nhân không chỉ giàu có mà còn mong muốn có nhiều quyền lực chính trị hơn.

Nhưng cái thể chế mà ông Trọng nỗ lực chữa trị đã được để lại với hiện trạng như thế nào?

Ảnh minh họa - Công nhân làm việc tại Xí nghiệp may Hà Quảng, Quảng Bình (trang mạng Nhiếp ảnh và Đời sống)

Reuters: Mỹ hoãn quyết định nhạy cảm về ‘nền kinh tế thị trường’ của Việt Nam đến tháng 8

Bộ Thương mại Mỹ cho biết hôm thứ Tư rằng họ đã trì hoãn một quyết định khó khăn về việc có nên nâng cấp tình trạng kinh tế thị trường của Việt Nam thêm khoảng một tuần cho đến đầu tháng 8, với lý do “lỗi phần mềm CrowdStrike.”

Một quyết định về việc nâng cấp mà Hà Nội đã tìm kiếm từ lâu đã đến hạn vào thứ Sáu 26/7. Việc nâng cấp này bị các nhà sản xuất thép Mỹ, tôm vùng Vịnh và nông dân mật ong phản đối, nhưng được hỗ trợ bởi các nhà bán lẻ và một số nhóm kinh doanh khác.

Việc nâng cấp trên sẽ làm giảm các khoản thuế chống bán phá giá đối với [hàng] nhập khẩu Việt Nam do tình trạng hiện tại của Việt Nam đang được Mỹ coi là nền kinh tế phi thị trường.

Chủ tịch nước Tô Lâm đón tiếp Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Hà Nội ngày 20/6/2024. Ảnh: Reuters

Sau quốc tang là điều gì cho Tô Lâm?

Là một quốc gia ảnh hưởng của Nho giáo, vấn đề tang chế của bậc đế vương luôn thu hút sự quan tâm của “bàn dân thiên hạ.” Việc ai chủ trì lễ tang, ai đọc điếu văn sẽ là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng chuyển tải thông điệp về việc người kế nhiệm.

Câu chuyện phe phái tranh giành quyền lực đã được bàn tán nhiều năm, lại tiếp tục được hâm nóng ngay từ bây giờ, khi người quan trọng nhất đang nằm trong nhà tang lễ và các thủ tục cho chuẩn bị một lễ quốc tang đang được tiến hành.

Trong những ngày này, người dân dán mắt vào từng động thái xoay quanh đám tang để “dò đoán” thái độ của từng nhân vật cấp cao.

Tô Lâm sẽ lên tổng bí thư?

Theo quy định thì ông Tô Lâm đương nhiên sẽ là trưởng ban lễ tang, thế nhưng điều đáng lưu ý là trưởng ban tổ chức lễ tang lại là ông Lương Cường – Thường trực Ban Bí thư.

Đây là một chỉ dấu cho thấy phe quân đội đang tìm cách cân bằng lại tương quan quyền lực đối với ông Tô Lâm. Và như thế, cuộc quyết đấu quyền lực giữa phe quân đội và phe công an đang bắt đầu. Phe nào giành ưu thế hay là sẽ thoả hiệp thì chúng ta phải tiếp tục chờ đợi ở Hội nghị Trung ương 10 sắp tới.