Các nguy cơ gắn liền với đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Xác suất sập bẫy nợ Trung Quốc của Việt Nam

Để có một khái niệm về xác suất Việt Nam đã hay đang sập bẫy nợ Trung Quốc hay chưa, việc phải làm đầu tiên là ước tính tổng trị giá tất cả các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam. Như đã trình ở phần trước, tổng trị giá biết được của đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam nay trên 24 tỷ USD kể từ năm 2006 cho đến ngày hôm nay. Một dự án trên 100 triệu USD là một dự án lớn tại bất cứ quốc gia nào, do đó tất cả hay đa phần các các vốn đầu tư vào các dự án có tầm cỡ này sẽ có dạng nợ vay Trung Quốc dưới sự bảo lãnh có chủ quyền (sovereign guarantee) của nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, vì con số 24 tỷ USD này chỉ là tổng số các đầu tư trên 100 triệu USD mà thôi, tổng số vốn Trung Quốc đã đổ vào Việt nam sẽ phải cao hơn nếu tính thêm tất cả các đầu tư từ dưới 100 triệu USD.

Vì thiếu số liệu và vì không có một mô hình hồi quy nào có thể dự phóng hay ước lượng được một cách thỏa đáng tổng trị giá các đầu tư dưới 100 triệu USD khi dùng các đầu vào là số dự án, trị giá từng dự án và do đó sự phân phối của các dự án trên 100 triệu USD, ta có thể làm 4 giả định đơn giản sau để ước tính tổng trị giá các đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam. Giả định 1: tổng trị giá các dự án dưới 100 triệu USD bằng nửa (1/2: 1); giả định 2: bằng (1:1), giả định 3: gấp rưỡi (1.5:1) Giả định 4: hay gấp đôi (2:1) tổng trị giá các dự án trên 100 triệu USD. Với các giả định này, trị giá tổng số các dự án đầu tư từ Trung Quốc sẽ từ 36 (tức là 24+24/2), 48 (tức là 24 + 24), 60 (tức là 24 + 24*3/2) đến 72 (tức là 24 + 24*2) tỷ USD. Nói khác đi, Việt Nam có thể nợ Trung Quốc thấp là 36 và cao là 72 tỷ USD.

Với số nợ từ 36 đến 72 tỷ USD này, dù lạc quan vẫn phải nói là xác suất Việt Nam sập bẫy nợ Trung Quốc sẽ cao. Hay bi quan mà nói thì với một số nợ như thế, Việt Nam đã sập bẫy nợ Trung Quốc từ lâu rồi. Lý do là, một nước giàu như Venezuela, chỉ với 52 tỷ USD nợ Trung Quốc, đã sập bẫy nợ Trung Quốc. Việt Nam là một đông dân hơn nhưng nghèo hơn so với Venezuela nhiều, như các số liệu sau chứng minh: GDP của Việt Nam vào năm 2017 là 223.864 triệu USD, hay là 2.343 USD/GDP đầu người trong khi GDP của Venezuela vào năm 2017 là 236.116 triệu USD, hay là 7.480 USD/ GDP đầu người, tức là gần 3 lần Việt Nam (17).

Hiện nay, thật sự không có cách nào để xác định Việt Nam đã sập bẫy nợ Trung Quốc hay chưa nếu Đảng Cộng sản Việt Nam chưa thành thực khai báo với toàn dân hay có ai trong đảng tự thấy cần phải đưa ra các số liệu và bằng chứng cần thiết.

Tuy nhiên có một số chỉ dấu đáng lo ngại. Tại sao Trung Quốc chiếm đóng biển Đông và đưa giàn khoan dầu vào khai thác dầu tại những vùng biển rõ ràng là của Việt Nam, cắt dây cáp tàu viễn thông, hay đánh chìm tàu đánh cá của ngư dân, mà đảng và nhà nước chỉ phản đối yếu ớt chiếu lệ? Có phải chăng là nhà nước Việt Nam đã sập bẫy? Đây là một điều mà vì quá thiếu số liệu có thể kiểm chứng được nên khó lòng thể quyết đoán được. Tuy thế, đây cũng chính là một điều mà đảng và nhà nước Việt Nam cần phải minh bạch trả lời ngay cho toàn dân.

Giả dụ như Việt Nam chưa sập bẫy, nhưng vì công nợ của Việt Nam nay đã quá cao, nên xác suất sập bẫy nợ Trung Quốc vẫn sẽ có thể cao hơn dự phóng. Ví dụ, nếu lãi suất là 2%, mỗi năm tiền lời phải trả từ 720 triệu USD (khi nợ là 36 tỷ USD) đến 1,4 tỷ USD (khi nợ là 72 tỷ USD). Theo hướng dẫn Khung nợ bền vững (Debt Sustainability Framework, DSF) của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund, IMF), một nước đang phát triển như Việt Nam chỉ nên có tỷ lệ công nợ/Tổng sản phẩm quốc nội (TSPQN, hay là GDP) từ 30% đến 50% mà thôi, tùy theo chính sách quản lý công nợ có chặt chẽ hay không (xem hình “Các Ngưỡng Gánh Nặng Nợ Và Điểm Chuẩn Theo Khung Nợ Bền Vững” ở dưới) (18).

Hiện nay, theo báo cáo của nhà nước Việt Nam, tỷ lệ công nợ/GDP của việt Nam là 62,6% vào năm 2017 và dự trù sẽ lên 63,9% vào cuối năm 2018, tức là cao hơn ngưỡng an toàn 30% khi chính sách quản lý công nợ yếu kém đến 108%, hay cao hơn ngưỡng an toàn 50% khi chính sách quản lý công nợ tốt đến 25%. Hình “Tình hình vay nợ của Chính phủ và Quốc gia 2011 -2018” ở dưới cho thấy hiện trạng công nợ tại Việt Nam vào lúc này (19). Cho dù chúng là số liệu của nhà nước Việt Nam và do đó lạc quan, các con số này xác nhận tình hình công nợ của Việt Nam đang cao hơn các mức an toàn đã được các định chế tài chánh quốc tế công nhận. Việt Nam còn là một nước yếu kém về việc quản lý công nợ: từ 2011, công nợ đã tăng trung bình là 18,4% mỗi năm, hay gấp ba lần tăng suất kinh tế. Hệ thống tài chánh công và tư của Việt Nam lại không có tính thanh khoản cao, tức là có không có nhiều khả năng cải hóa cấp thời các tài sản thành tiền mặt để trả được ngay các tiền lãi và gốc của các nợ ngắn hay dài hạn. Cụ thể, vào tuần đầu tháng Bảy năm nay, Ngân hàng Nhà Nước đã phải bơm thêm 45 tỷ VND vào hệ thống ngân hàng để bảo vệ thanh khoản (20). Khi công nợ cao, tính thanh khoản thấp, đồng thời nhà nước vẫn muốn thực hiện nhiều chương trình và dự án đầu tư phát triển lớn và mới trong mọi ngành – từ hạ tầng cơ sở như nhiệt và thủy điện đến công nghiệp nặng như sắt thép – nhu cầu vay nợ sẽ xuất hiện và gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu này, vốn từ Trung Quốc sẽ rất hấp dẫn và do đó xác suất sập bẫy nợ Trung Quốc cũng theo đó mà gia tăng.

(Xem tiếp trang 4 và hết: Các nhà máy biên giới và các cảng thường/cảng nhiệt điện đe dọa nền An Ninh Quốc Phòng)

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Lời kêu gọi tham dự biểu tình UPR 2024 diễn ra vào ngày 7/5 trước trụ sở Liên Hiệp Quốc

Ngày 7 tháng 5 này, nhà nước CSVN sẽ bị kiểm điểm trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Council – UNHRC) về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Đây là dịp để chúng ta chỉ rõ sự gian trá của CSVN trước diễn đàn quốc tế.

Chúng tôi kêu gọi đồng bào tham dự buổi biểu tình diễn ra ngày 7/5/2024, trước Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève, Thụy Sĩ, nhằm lên án những vi phạm nhân quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đảng

Để chống lại sự lăng loàn, độc đoán của đảng, ở những nước đa đảng (như Mỹ, Pháp, Hàn, Nhật, Sing chẳng hạn), họ cấm tiệt việc sử dụng ngân sách phục vụ cho riêng đảng nào đó. Tất cả đều phải tự lo, kể cả chi phí cho mọi hoạt động lớn nhỏ, từ chiếc ghế ngồi họp tới cái trụ sở mà đảng sử dụng. Tham lậm vào tiền thuế của dân, nó sẽ tự kết liễu sự nghiệp bởi không có dân nào bầu cho thứ đảng bòn rút mồ hôi nước mắt mình làm lãnh đạo mình.

Ảnh chụp màn hình VOA

Nhóm trí thức Việt Nam đề nghị lãnh đạo chớ ‘nói suông,’ nên chân thành hoà giải

GS. TS. Nguyễn Đình Cống, người đã công khai từ bỏ đảng Cộng sản vào năm 2016 và là một thành viên ký tên trong bản kiến nghị, nói với VOA:

“Thực ra, đây là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhân dân Việt Nam hy sinh xương máu của cả hai bên để mang lại một chiến thắng cho đảng Cộng sản. Còn đối với dân tộc thì chẳng được gì cả. Nó chỉ mang lại được sự thống nhất về mặt lãnh thổ thôi. Còn sau chiến thắng ấy, không giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc. Đảng thì được. Đảng được vì đạt được chính quyền toàn quốc. Còn dân tộc thì việc hoà giải dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được.”

Ngày 30 Tháng Tư, người Việt ở hải ngoại gọi là ngày mất nước, ngày quốc hận. Ảnh minh họa: David McNew/Getty Images

Không cần hòa giải, cần đấu tranh!

Bốn mươi chín năm đã đủ lâu để những người có suy nghĩ đều nhận ra sự thật không ai là “bên thắng cuộc,” cả dân tộc là nạn nhân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Gần nửa triệu thanh niên miền Bắc, 280.000 thanh niên miền Nam bỏ mạng, 2 triệu thường dân vô tội chết trong binh lửa – đó là cái giá máu mà dân tộc này đã phải trả cho cái gọi là công cuộc “giải phóng miền Nam.”